Men gan tăng

03/08/2019 11:05 GMT+7

Giới thiệu

Bước khởi đầu để phát hiện tổn thương gan là xét nghiệm máu để tìm sự hiện diện của men (enzyme) gan trong máu. Trong điều kiện bình thường, các men này nằm bên trong tế bào gan. Nhưng khi gan bị tổn thương thì các men này tràn ra máu.

Các men gan nhạy và được sử dụng nhiều nhất là men aminotransferase. Chúng bao gồm aspartate aminotransferase (AST hay SGOT) và alanine aminotransferase (ALT hay SGPT). Bình thường các men này nằm bên trong tế bào gan và một số cơ quan khác. Khi có hiện tượng tổn thương gan thì các men này tràn vào máu, làm cho nồng độ trong máu của chúng gia tăng. Đây là dấu chỉ của tình trạng tổn thương gan.

Aminotransferase là gì?

Men aminotransferase có nhiệm vụ xúc tác các phản ứng hóa học trong tế bào, trong đó nhóm amin được di chuyển từ phân tử cho sang phân tử nhận. Tên gọi khác của men aminotranferase là transaminase. Men aspartate aminotransferase (AST) còn được gọi là men glutamic oxaloacetic transaminase trong huyết thanh (SGOT) và alanine aminotransferase (ALT) còn được gọi là men glutamic pyruvic transaminase trong huyết thanh (SGPT). Nói một cách ngắn gọn: AST=SGOT và ALT=SGPT.

Các men aminotransferase bình thường có ở đâu?

  • AST (SGOT) bình thường được tìm thấy ở nhiều cơ quan như gan, tim, cơ, thận và não. Nó được phóng thích vào máu khi một trong các cơ quan này bị tổn thương. VD như nồng độ của nó sẽ tăng cao trong máu khi có nhồi máu cơ tim hoặc bệnh lý tổn thương cơ. Do vậy, men này không đặc hiệu cho tình trạng tổn thương gan.
  • ALT (SGPT) thì ngược lại, được tìm thấy phần lớn ở trong gan. Mặc dù không thể nói rằng men này chỉ hiện diện duy nhất tại gan, nhưng có thể nói gan là nơi mà nó tập trung nhiều nhất. Nó được phóng thích vào máu khi có hiện tượng tổn thương gan. Do đó có thể xem men này là một dấu chỉ tương đối đặc hiệu cho tình trạng của gan.

Nồng độ của AST, ALT trong máu bình thường là bao nhiêu?

  • AST (SGOT) có giới hạn bình thường từ 5 đến 40 đơn vị trong một lít huyết thanh (một thành phần lỏng của máu không có chứa các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu). Thường được ký hiệu là U/L hoặc UI/L.
  • ALT (SGPT) có giới hạn bình thường từ 7 đến 56 U/L

Nồng độ của AST, ALT trong máu tăng có ý nghĩa gì?

Hình ảnh: Ungthu.net.vn

AST (SGOT), ALT (SGPT) là các men phản ánh tình trạng tổn thương gan do nhiều bệnh lý khác nhau. Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng nồng độ của các men này cao hơn bình thường không đồng nghĩa với việc có bệnh gan. Chúng có nghĩa là gan có vấn đề hoặc không. Việc diễn giải nồng độ AST và ALT gia tăng còn phải tùy thuộc vào bệnh cảnh lâm sàng và cần được thực hiện bởi bác sĩ có kinh nghiệm để đánh giá tình trạng của gan.

Nồng độ các men gan không có tương quan đến phạm vi tổn thương gan và tiên lượng. Do đó nồng độ các men này không được sử dụng để đánh giá độ nặng và tiên lượng của bệnh gan. VD bệnh nhân bị viêm gan siêu vi A cấp tính có thể có nồng độ AST, ALT rất cao (đôi khi có thể lên đến hàng ngàn U/L ). Nhưng hầu hết các bệnh nhân viêm gan siêu vi A cấp tính có thể hồi phục hoàn toàn. Ngược lại, bệnh nhân nhiễm virus viêm gan siêu vi C mạn tính chỉ có nồng độ AST và ALT tăng nhẹ nhưng một số bệnh nhân này âm thầm khởi phát bệnh gan mạn tính như viêm gan mạn tính và xơ gan.

Bệnh gan nào gây tăng các men aminotransferase?

Nồng độ AST, ALT tăng cao nhất thường thấy trong những bệnh lý gây chết tế bào gan hàng loạt (hoại tử gan lan tỏa). Hiện tượng này xuất hiện trong viêm gan siêu vi A hoặc B cấp tính, tổn thương gan nhiều do độc tố như quá liều acetaminophen (Tylenol), ngưng tuần hoàn kéo dài làm cho gan bị thiếu hụt ôxy và dưỡng chất. Nồng độ AST, ALT trong những trường hợp này có thể tăng từ 10 lần so với giới hạn trên của chỉ số bình thường đến hàng ngàn U/L.

Tăng men gan từ nhẹ đến trung bình thì thường gặp. Điều này có thể thấy trong các xét nghiệm máu tầm soát và có thể gặp ở những người khỏe mạnh. Nồng độ của AST, ALT trong những trường hợp như thế thường thường từ gấp hai lần giới hạn trên của giá trị bình thường đến vài trăm U/L. Nguyên nhân của việc gia tăng men AST, ALT từ nhẹ đến trung bình thường gặp nhất là tình trạng gan nhiễm mỡ. Tại Mỹ, nguyên nhân thường gặp nhất của gan nhiễm mỡ là nghiện rượu. Các nguyên nhân khác của gan nhiễm mỡ bao gồm tiểu đường và béo phì. Viêm gan siêu vi C mạn tính cũng là một nguyên nhân quan trọng của tăng men gan mức độ từ nhẹ đến trung bình.

Thuốc nào gây tăng các men aminotransferase?

  • Các thuốc giảm đau như aspirin, acetaminophen (Tylenol), ibuprofen (Advil, Motrin), neproxen (Narosyn), diclofenac (Voltaren) và phenybutazone (Butazolidine).
  • Các thuốc chống động kinh như phenytoin (Dilantin), valproic acid, carbamazepine (Tegretol) và phenobarbital.
  • Các thuốc kháng sinh như tetracyclines, sulfonamides, isoniazid (INH), sulfamethoxazole, trimethoprim, nitrofurantoin...
  • Các thuốc làm giảm cholesterol như nhóm statin (Mevacor, Pravachol, Lipitor...) và niacin
  • Các thuốc tim mạch như amiodarone (Cordarone), hydralazine, quinidine...
  • Cácthuốc chống trầm cảm nhóm 3 vòng

Các nguyên nhân ít phổ biến có thể làm tăng men aminotransferase bao gồm những gì?

  • Viêm gan siêu vi B
  • Tích tụ sắt quá mức: Đây là bệnh lý di truyền mà trong đó có sự hấp thụ sắt quá mức trong thức ăn, dẫn đến sắt được tích tụ quá nhiều trong gan và kết quả là hiện tượng viêm và gây sẹo cho gan.
  • Bệnh Wilson: Đây là bệnh lý di truyền với sự tích tụ quá mức chất đồng (Cu) trong gan và não. Đồng trong gan sẽ làm viêm gan mạn tính, trong khi đồng trong não sẽ dẫn đến rối loạn vận động và tâm thần.
  • Thiếu hụt men alpha-1-antitrypsin: Đây là một rối loạn di truyền mà trong đó sự thiếu hụt một loại glycoprotein (phức hợp giữa carbohydrate-protein) có tên gọi là alpha-1-antitrypsin sẽ gây nên bệnh phổi mạn tính là khí phế thủng và bệnh gan.
  • Bệnh Celiac: là một dạng bệnh lý ở ruột non do dị ứng với gluten, một loại protein có trong lúa mì và một số ngũ cốc.
  • Bệnh Crohn: Một dạng bệnh lý viêm ruột
  • Viêm loét đại tràng
  • Viêm gan tự miễn: Nguyên nhân là do các kháng thể của chính cơ thể tấn công và làm tổn thương gan.
  • Một số ít các trường hợp bất thường về men gan là do nguyên nhân của carcinome tế bào gan (một dạng của ung thư gan).

Hiện tượng tăng men aminotransferase ở người khỏe mạnh được đánh giá như thế nào?

Việc đánh giá hiện tượng tăng men aminotransferase ở người khỏe mạnh cần được cụ thể hóa từng trường hợp. Bác sĩ có thể xem xét các kết xét nghiệm máu cũ để so sánh. Nếu không có những kết quả cũ thì bác sĩ có thể cho làm xét nghiệm hàng tuần hoặc hàng tháng để theo dõi xem hiện tương gia tăng nồng độ các men gan có kéo dài hay không. Bác sĩ cũng sẽ tìm kiếm các yếu tố nguy cơ của viêm gan siêu vi B và C bao gồm quan hệ tình dục, truyền máu, chích thuốc, nghề nghiệp có tiếp xúc với các chế phẩm của máu. Tiền sử gia đình có bệnh gan có thể làm tăng khả năng mắc các bệnh di truyền như tích tụ chất sắt quá mức, bệnh Wilson, thiếu hụt alpha-1- antitrypsin.

Biểu mẫu theo dõi nồng độ men gan có thể cung cấp những bằng chứng hữu ích trong việc xác định nguyên nhân của bệnh gan. VD phần lớn bệnh nhân bị bệnh gan do rượu thì có nồng độ men gan tăng không cao như tăng trong viêm gan siêu vi cấp và AST (SGOT) có xu hướng tăng cao hơn ALT (SGPT). Vì thế trong bệnh gan do rượu thì nồng độ AST thường dưới 300U/L trong khi nồng độ của ALT thường dưới 100U/L.

Nếu rượu hay thuốc là nguyên nhân của tăng men gan thì việc ngưng uống rượu hay ngưng thuốc (dưới sự giám sát của bác sĩ) có thể làm cho men gan trở về bình thường hoặc gần bình thường trong vòng vài tuần hay vài tháng.

Nếu tình trạng béo phì bị nghi ngờ là nguyên nhân của tăng men gan thì việc giảm cân từ 5 đến 10% có thể làm cho men gan trở về bình thường hoặc gần bình thường.

Nếu tình trạng tăng men gan vẫn tiếp tục tồn tại dù cho đã ngưng uống rượu, giảm cân, ngưng một số thuốc nghi ngờ làm tổn thương gan thì việc xét nghiệm máu là cần thiết để giúp chẩn đoán. Xét nghiệm máu giúp tìm kiếm sự hiện diện của virus viêm gan siêu vi B, C và các kháng thể của chúng. Nồng độ trong máu của sắt, sắt bão hòa và ferritin (đánh giá số lượng sắt được dự trữ trong cơ thể) luôn tăng cao ở những bệnh nhân bị tích tụ sắt quá mức. Nồng độ trong máu của một chất được gọi là ceruloplasmin luôn luôn giảm ở bệnh nhân mắc bệnh Wilson. Nồng độ của một vài kháng thể trong máu như kháng thể kháng nhân (ANA), kháng thể kháng cơ trơn, kháng thể kháng gan và thận thường tăng ở những bệnh nhân bị bệnh viêm gan tự miễn.

Siêu âm và chụp CT scan vùng bụng có thể được thực hiện để giúp loại trừ những khối u ở gan hay các bệnh lý khác như sỏi mật hoặc khối u làm tắc nghẽn ống dẫn mật của gan.

Sinh thiết gan có thể được thực hiện trong một số trường hợp để xem xét dưới kính hiển vi. Không phải tất cả những người có men gan tăng đều cần phải sinh thiết gan. Bác sĩ sẽ tiến hành sinh thiết gan khi:

  • Thông tin có được từ việc sinh thiết có thể giúp ích trong điều trị.
  • Bác sĩ cần biết mức độ viêm, lan tỏa và tổn thương gan
  • Dùng để đánh giá hiệu quả điều trị

Theo dõi men gan như thế nào?

Việc làm hữu ích nhất là xét nghiệm AST (SGOT ) và ALT (SGPT) theo từng khoảng thời gian để giúp đánh giá nồng độ các men này đang tăng, ổn định hay giảm đi. VD một bệnh nhân đang được điều trị viêm gan siêu vi C nên được làm xét nghiệm theo dõi liên tục nồng độ men gan trong máu. Nếu bệnh nhân có đáp ứng tốt với điều trị thì nồng độ men gan trở về bình thường hoặc gần bình thường. Còn những bệnh nhân bị tái phát viêm gan siêu vi C sau khi kết thúc điều trị thì men gan sẽ tăng trở lại.

Các men gan khác là gì?

Ngoài men AST (SGOT) và ALT (SGPT) thì còn có những men khác như phosphatase kiềm, 5-nucleotidase, gamma-glutamyltranspeptidase (GGT) cũng thường được kiểm tra trong các bệnh gan. Tuy nhiên AST và ALT vẫn là 2 men gan quan trọng nhất vì có liên quan với nhau về mặt sinh hóa và hữu ích nhất.

 

Ban Biên tập Y khoa Việt Nam