Suy tĩnh mạch

30/03/2020 11:03 GMT+7

SUY TĨNH MẠCH LÀ GÌ?

Tĩnh mạch là các mạch máu đưa máu nghèo ôxy của cơ thể trở về tim. Có 3 loại tĩnh mạch ở các chi: tĩnh mạch nông nằm trong da và dưới da, tĩnh mạch sâu nằm trong các nhóm cơ, và tĩnh mạch xuyên kết nối hai loại trên.

Suy tĩnh mạch là để chỉ những trường hợp máu tĩnh mạch không theo đường chảy bình thường mà trào ngược lại ngoại biên vốn đã bị ứ huyết.

Vì một số nguyên nhân nào đó dẫn tới sự hoạt động bất thường của van tĩnh mạch gây ra dòng máu trào ngược lại gây ứ trệ tuần hoàn máu tĩnh mạch và tăng áp lực tĩnh mạch lâu dần gây bệnh suy tĩnh mạch mạn tính.

Bệnh suy tĩnh mạch mạn tính bản chất có thể xảy ra ở bất kỳ tĩnh mạch nào trên cơ thể. Tuy nhiên là bệnh thường xảy ra nhất là ở các tĩnh mạch chân do hệ thống tĩnh mạch chân dài, cấu tạo phức tạp thường phải chịu áp lực lớn, nên còn được gọi là Suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới.

MÁU TỪ TĨNH MẠCH VỀ TIM BẰNG CÁCH NÀO?

Máu ở các chi, đặc biệt là chi dưới (chân) trở về tim chủ yếu qua đường các tĩnh mạch sâu. Bình thường máu tĩnh mạch trở về tim nhờ có:

(1) Lực đẩy từ đông mạch, lực hút do tim co bóp;

(2) Áp lực âm trong lòng ngực hút máu về tim;

(3) Sự co bóp của các khối cơ cẳng chân ("bơm cơ"), ép vào các tĩnh mạch sâu và đẩy máu đi về tim;

(4) Hệ thống van trong lòng tĩnh mạch, giữ không cho máu trào ngược dòng.

Suy tĩnh mạch

Khi hệ thống van một chiều của tĩnh mạch bị suy, sẽ xuất hiện dòng máu trào ngược, dẫn đến tình trạng ứ trệ máu trong lòng tĩnh mạch và làm tăng áp lực tĩnh mạch ở cẳng chân, lâu dần dẫn đến tình trạng suy tĩnh mạch mạn tính.

Suy tĩnh mạch mạn tính được định nghĩa là tình trạng các tĩnh mạch không thể bơm đủ máu nghèo ôxy trở về tim. Bệnh này rất thường gặp ở chi dưới, xảy ra ở khoảng 10 - 35 % người lớn. Bệnh thường tiến triển chậm, không rầm rộ, ít nguy hiểm đến tính mạng nhưng trở ngại nhiều cho sinh hoạt và công việc hàng ngày, điều trị lâu dài và tốn kém nhất là khi có biến chứng.

THỐNG KÊ DỊCH TỄ?

Trên thế giới tỷ lệ mắc bệnh 10- 61% (tỷ lệ nam /nữ từ 1/2 đến 1/4). Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Tần suất gặp suy tĩnh mạch gấp 10 lần bệnh động mạch chi dưới. Chi phí điều trị suy tĩnh mạch mạn tính tại Hoa kỳ từ 150 triệu USD đến 1 tỷ USD/năm.

Ở Việt nam, theo Nguyễn Thị Hải Yến và Phạm Nguyên Sơn (2015), ở bệnh nhân trên 50 tuổi, tỷ lệ suy tĩnh mạch nông chi dưới là 44,1% và tỷ lệ có dòng trào ngược trong lòng tĩnh mạch là 34,8%. Hiểu biết về suy tĩnh mạch còn rất hạn chế: 92,5% bệnh nhân không biết về bệnh lý tĩnh mạch trước nghiên cứu và 91,8% bệnh nhân suy tĩnh mạch không được điều trị.

Điều này nói lên thực trạng về bệnh lý tĩnh mạch ở nước ta, trong đó chủ yếu là bệnh nhân ít quan tâm, ngại đi khám, thầy thuốc coi nhẹ và bỏ sót các triệu chứng. Chỉ có 8,2% bệnh nhân suy tĩnh mạch được điều trị và đa số là sử dụng các loại thuốc chữa triệu chứng như Aspirin, lợi tiểu hoặc các loại thuốc Đông y.

NGUYÊN NHÂN SUY TĨNH MẠCH MẠN TÍNH CHI DƯỚI?

Được chia làm 4 nhóm: bẩm sinh, tiên phát, thứ phát và không tìm được nguyên nhân.

  • Giãn tĩnh mạch bẩm sinh, nguyên nhân do bất thường của thành tĩnh mạch. Ngày nay tìm thấy có yếu tố gen.
  • Nhóm giãn tĩnh mạch tiên phát hay còn gọi là giãn tĩnh mạch vô căn: Trong nhóm này, ban đầu các tĩnh mạch bị giãn và dài ra sau đó các van tĩnh mạch mất dần chức năng.
  • Nhóm giãn tĩnh mạch thứ phát, thường do viêm tĩnh mạch: Ở nhóm này các van tĩnh mạch bị mất chức năng trước, sau đó các tĩnh mạch mới bị giãn và dài ra. Bao gồm: Bệnh lý hậu huyết khối. Dị sản tĩnh mạch: thiếu hụt hoăc thiểu sản van tĩnh mạch bẩm sinh có kèm theo hoặc không kèm theo rò động tĩnh mạch. Và bị chèn ép về huyết động như có thai, thể thao hoặc chèn bệnh lý như khối u.
  • Một số trường hợp suy tĩnh mạch mạn tính không tìm thấy nguyên nhân

YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA SUY TĨNH MẠCH?

Do khiếm khuyết van tĩnh mạch bẩm sinh

Do thói quen thường xuyên đứng lâu hay ngồi lâu, mang thai gây ứ trệ máu và tăng áp lực tĩnh mạch của chi dưới

Huyết khối tĩnh mạch sâu ngăn cản dòng máu trở về tim

Viêm tĩnh mạch làm hình thành huyết khối ở tĩnh mạch nông hoặc sâu

Các yếu tố liên quan khác: Nữ giới mắc nhiều hơn, sinh đẻ nhiều lần, thừa cân, táo bón kinh niên, yếu tố nội tiết sử dụng nhiều thuốc tránh thai, lười vận động, hút thuốc lá, tuổi cao trên 50...

TRIỆU CHỨNG VÀ DIỄN TIẾN TỰ NHIÊN CỦA SUY TĨNH MẠCH?

Giai đoạn sớm

Cảm giác khó chịu ở bắp chân, nặng chân, có khi có các cảm giác dị cảm kiến bò, nóng rát

Vọp bẻ (Chuột rút) ở bắp chân thường xảy ra vào ban đêm

Sưng phù xung quanh mắt cá chân, rõ vào buổi tối

Giãn các mao mạch và tĩnh mạch nông ở chân. Có 3 loại giãn tĩnh mạch nông: giãn thân tĩnh mạch, giãn tĩnh mạch nhỏ dạng mạng nhện, giãn tĩnh mạch nhỏ dạng lưới. Các van bên trong tĩnh mạch dãn bị suy (mất chức năng)

Đau nhức, tê mỏi chân

Các triệu chứng tăng lên vào chiều tối, sau khi đứng lâu và giảm sau khi ngủ dậy, sau nghỉ ngơi, kê chân cao, chườm lạnh...

Giai đoạn muộn

Hình thành huyết khối tĩnh mạch gây ra các triệu chứng:

  • Huyết khối tĩnh mạch nông: Tĩnh mạch nổi hẳn lên có thể nhìn rõ bằng mắt thường, sờ ấm và cứng dọc theo tĩnh mạch, rất đau và có thể kèm theo đỏ da. Huyết khối tĩnh mạch nông hiếm khi gây biến chứng, không nguy hiểm đến tính mạng, tuy vậy cần thăm khám cẩn thận để loại trừ huyết khối tĩnh mạch sâu phối hợp.
  • Huyết khối tĩnh mạch sâu: Chân nóng, sưng đỏ, đau nhức nhối, ngứa, có thể bị chảy máu, nhiễm trùng thứ phát. Trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu có thể nguy hiểm tới tính mạng do huyết khối có thể bong và đi lên phổi gây thuyên tắc động mạch phổi rất nguy hiểm
  • Loạn dưỡng da chân: Da phù nề, dày lên, có thể bong vảy da, chảy nước và thay đổi màu sắc
  • Loét chân: Xuất hiện các vết loét rất đau, thường xuất hiện ở vùng thấp của chân, ban đầu loét nông sau sâu và rộng dần, dễ bội nhiễm vi khuẩn, điều trị rất khó khan và hay tái phát.

PHÂN ĐỘ THEO CÁC GIAI ĐOẠN CỦA SUY TĨNH MẠCH MẠN TÍNH?

Hiện nay lâm sàng của suy tĩnh mạch mạn tính được chia làm 6 giai đoạn tuỳ thuộc vào mức độ tổn thương da theo phân loại CEAP

Phân loại CEAP (1995): được áp dụng rộng rãi trên thế giới, hiện nay vẫn đang áp dụng trên lâm sàng.

- C: Lâm sàng.

- E: Nguyên nhân bệnh sinh.

- A: Giải phẫu học.

- P: Sinh bệnh học.

Phân loại CEAP nâng cao (2004)

Mô tả rõ về bệnh hơn so với phân loại CEAP kinh điển (định khu giải phẫu, bổ xung n: không xác định được bệnh sinh hay nguyên nhân...).

Chủ yếu được áp dụng trong các nghiên cứu lâm sàng.

Chia làm các mức độ từ C0 đến C6.

+ C0: Không có biểu hiện bệnh lý tĩnh mạch có thể quan sát hoặc sờ thấy.

+ C1: Giãn mao tĩnh mạch mạng nhện hoặc dạng lưới với đường kính<3mm.

+ C2: Giãn tĩnh mạch với đường kính >3mm.

+ C3: Phù chi dưới, chưa có biến đổi trên da.

+ C4: Loạn dưỡng da với các biến đổi trên da do bệnh lý tĩnh mạch:

  • C4a: Rối loạn sắc tố và/hoặc chàm tĩnh mạch
  • C4b: Xơ mỡ da và/hoặc teo trắng của Milian.

+ C5: Những biến đổi trên da như được nêu ở trên kèm với loét đã lành sẹo.

+ C6: Những biến đổi trên da như được nêu ở trên kèm với loét đang tiến triển.

BIẾN CHỨNG CỦA SUY TĨNH MẠCH MẠN TÍNH

Trước tiên là các biến chứng về rối loạn huyết động học: Cẳng chân bệnh nhân bị sưng to, có triệu chứng đau buốt mặt sau cẳng chân, chuột rút về đêm.

Nặng hơn, bệnh nhân có thể bị viêm tắc tĩnh mạch, chân nóng, sưng đỏ, các tĩnh mạch nông nổi rõ và viêm cứng.

Giai đoạn cuối cùng có thể diễn tiến đến tình trạng giãn to toàn bộ hệ tĩnh mạch, các tĩnh mạch giãn rất lớn, ứ trệ tuần hoàn và rối loạn dinh dưỡng của da chân phía dưới gây viêm loét, nhiễm trùng rất khó điều trị.

Một biến chứng rất nặng nề và cũng thường hay gặp của suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính là việc hình thành cục máu đông trong lòng tĩnh mạch. Cục thuyên tắc có thể tách rời khỏi thành tĩnh mạch, đi về tim và gây thuyên tắc động mạch phổi, một biến chứng rất nặng có thể đưa đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời.

Chảy máu do giãn tĩnh mạch ở chân có thể dẫn tới tử vong. Chảy máu không phải là vấn đề ít gặp, nhưng thường được điều trị không đúng cách.

CÁC PHƯƠNG PHÁP HỖ TRỢ CHẨN ĐOÁN?

  • Xét nghiệm đông máu
  • Siêu âm Doppler màu mạch máu: với phương pháp này cho phép xác định được những rối loạn huyết động học, tình trạng của các van tĩnh mạch, mức độ giãn của tĩnh mạch và các cục thuyên tắc trong lòng mạch để từ đó có thái độ điều trị đúng đắn. Siêu âm Doppler màu là một phương pháp chẩn đoán không xâm lấn, rất an toàn, cho kết quả ngay với mức độ chính xác từ 95-99%. Siêu âm Doppler màu tĩnh mạch cho phép thấy hình ảnh đoạn tĩnh mạch bị dãn, các van tĩnh mạch bị suy mất chức năng và thấy được có cục máu đông hình thành trong lòng tĩnh mạch hay không.
  • Chụp X-quang tĩnh mạch, CT scan tĩnh mạch để xem xét về giải phẫu của tĩnh mạch
  • Chụp MRI tĩnh mạch

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ SUY TĨNH MẠCH MẠN TÍNH

Điều trị nội khoa

Thay đổi thói quen sinh hoạt hạn chế đứng lâu hay ngồi lâu, tăng cường tập thể dục thể thao, kê chân cao

Mang vớ áp lực: đeo liên tục ban ngày giúp khép các van tĩnh mạch bị hở, làm hạn chế máu ứ trệ chảy ngược, giảm phù nề.

Băng ép nhằm phục hồi áp suất chênh lệch giữa hai hệ thống tĩnh mạch nông và sâu thông qua hệ thống xuyên, giảm đường kính của lòng tĩnh mạch để tăng khả năng vận chuyển máu  khi nghỉ ngơi cũng như khi gắng sức.

Dùng thuốc: Giảm đau, chống viêm, giảm đau, thuốc làm tăng vững bền thành mạch như Daflon, Rutin C, Veinamitol...., thuốc tan cục máu đông...

Chích xơ: Áp dụng cho giãn tĩnh mạch nhỏ và khu trú

Phẫu thuật: Cắt lấy bỏ các búi tĩnh mạch bị giãn, lột tĩnh mạch, sửa van, tạo hình tĩnh mạch qua da…

Laser: Can thiệp nội mạch bằng sóng cao tần hay laser, là kỹ thuật mới điều trị giãn tĩnh mạch, ít đau, mau hồi phục và đảm bảo thẩm mỹ, thay cho phẫu thuật lột tĩnh mạch kinh điển trước đây.

Hiện nay người ta còn áp dụng phương pháp đóng tĩnh mạch bằng keo sinh học gây dính là phương pháp điều trị không dùng nhiệt, không gây tê, không tiêm xơ. Phương pháp này tỏ ra khả thi, an toàn và hiệu quả, không cần băng ép sau thủ thuật, không để lại sẹo hay sạm da do nhiệt, ít đau hơn các phương pháp can thiệp và phẫu thuật khác.

Với một bệnh mạn tính, thành công của việc điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó quan trọng nhất ngoài việc chẩn đoán chính xác, điều trị hiệu quả mà còn phụ thuộc vào việc hiểu biết của bệnh nhân về tình trạng bệnh tật và tuân thủ theo điều trị cùng các vấn đề phòng bệnh.

Theo các chuyên gia về tĩnh mạch học trên Thế giới, khả năng tái phát của bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới là khá cao có thể lên đến trên 30%.

Nguyên nhân chủ yếu là do bệnh nhân không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong điều trị như không uống thuốc đúng thời gian quy định, không đeo vớ y khoa vì cảm thấy vướng víu khi hoạt động, không thay đổi chế độ làm việc và chế độ ăn uống giàu chất xơ ít chất bột đường... và không tham gia các hoạt động thể dục thể thao.

NÊN LÀM GÌ ĐỂ TRÁNH CÁC BIẾN CHỨNG?

Suy tĩnh mạch diễn biến mạn tính lâu dài theo thời gian và tuổi tác.

Cần tập trung chữa trị tốt, có kế hoạch theo dõi tái khám định kỳ khi bệnh còn ở giai đoạn sớm. Điều trị bằng thuốc và vớ áp lực ở giai đoạn dãn tĩnh mạch nhỏ dạng mạng nhện hay dạng lưới. Ở giai đoạn dãn thân tĩnh mạch, cần đến phẫu thuật cắt bỏ hoặc can thiệp nội mạch phối hợp với điều trị nội khoa.

Cần thay đổi thói quen làm việc và sinh hoạt; tránh đứng lâu hoặc ngồi bất động kéo dài; khi đi ô tô hay máy bay đường dài thì phải gấp duỗi chân từng lúc cho máu lưu thông, uống nhiều nước, mang tất dài hỗ trợ; giảm cân khi dư thừa; dùng thuốc đề phòng huyết khối tĩnh mạch sâu khi có chỉ định.

Các tổn thương van tĩnh mạch mạn tính tuy không thể hồi phục, nhưng nếu điều trị tốt, người bệnh vẫn còn có thể làm việc sinh hoạt bình thường.

MỘT SỐ SAI LẦM THƯỜNG GẶP VỀ SUY GIÃN TĨNH MẠCH MẠN TÍNH

Nhiều người có quan niệm sai lầm khi bị suy giãn tĩnh mạch như: người suy giãn tĩnh mạch không nên đi bộ nhiều hay nên ngâm chân bằng nước ấm mỗi ngày... Những thói quen không đúng này sẽ ảnh hưởng đến việc điều trị bệnh.

Bị suy giãn tĩnh mạch nên hạn chế đi bộ? Quan niệm như vậy là không đúng.

Nhiều người thường bỏ thói quen đi bộ khi biết mình bị suy tĩnh mạch, bởi sợ đi bộ khiến máu dồn xuống 2 chân nhiều hơn và làm nặng thêm tình trạng suy tĩnh mạch. Tuy nhiên, đi bộ là môn thể thao rất có lợi cho sức khỏe. Chuyển động của đôi chân không những tốt cho hệ tim mạch mà còn giúp giảm cân, ngăn ngừa béo phì.

Đối với hệ tĩnh mạch, động tác đi bộ làm co thắt các cơ cẳng chân, ép vào các tĩnh mạch sâu, làm cho máu tĩnh mạch được đẩy về tim tốt hơn, giảm ứ đọng ở các tĩnh mạch nông, giảm các triệu chứng đau nhức và khó chịu của bệnh suy tĩnh mạch chi dưới. Do đó, những người bị suy giãn tĩnh mạch nên tập và duy trì thói quen đi bộ mỗi ngày.

Tóm lại: Người bị suy giãn tĩnh mạch nên đi bộ, không nên đứng ngồi quá lâu một chỗ.

Người bị suy giãn tĩnh mạch không nên gác cao chân? Quan niệm như vậy là không đúng.

Khi đi ngủ nên nằm kê cao chân hơn mức tim từ 15-20cm để giúp máu trở về tim dễ dàng hơn. Không nên xoa dầu nóng vào chân, ngâm chân bằng nước nóng khi có biểu hiện bệnh suy giãn tĩnh mạch. Tập luyện thường xuyên những bài tập tốt cho hệ tĩnh mạch chân. Khi có biểu hiện suy giãn tĩnh mạch chi dưới, bệnh nhân nên đến bác sĩ chuyên khoa thăm khám, không nên tự ý mua thuốc sử dụng.

Người bị suy giãn tĩnh mạch ngâm chân với nước nóng mỗi ngày? Quan niệm như vậy là không đúng.

Bác sĩ chuyên khoa mạch máu chia sẻ, trong bệnh suy giãn tĩnh mạch, nóng sẽ làm tĩnh mạch suy giãn nhiều hơn và có xu hướng làm nặng hơn các triệu chứng của bệnh. Vì thế, không được ngâm chân nước nóng. Nhưng có thể ngâm chân với nước lạnh để giảm bớt các khó chịu vì nước lạnh làm cho mạch co lại, đồng thời hỗ trợ chức năng sinh lý của các cơ quan trong cơ thể ở trạng thái hoạt động tích cực dưới sự điều tiết bởi chất dịch thần kinh. Khi ngâm chân, chị nên ngâm từ phía dưới mắt cá chân trở xuống với nước lạnh khoảng 10 độ C khoảng 10 phút.

Lời khuyên từ bác sĩ chuyên khoa mạch máu

Để phòng bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới, mọi người cần chú ý những vấn đề sau. Cần có chế độ sinh hoạt và làm việc hợp lý, hạn chế việc ngồi lâu, đứng lâu ở một tư thế. Giảm cân khi có thừa cân. Không nên bận quần áo quá chật, đặc biệt là bó sát vùng chậu hông và chân.

Tập luyện thể thao: Không phải môn thể thao nào cũng có lợi cho tĩnh mạch. Những môn thể thao "nặng" như đá banh, tennis, bóng chuyền, nhảy cao, nhảy xa… không có lợi cho tĩnh mạch vì nó làm chấn động tĩnh mạch khi chúng ta chạy nhảy với tốc độ và cường độ cao. Nên chơi những môn thể thao "nhẹ nhàng" như bơi lội, đi bộ, khiêu vũ, đạp xe vì những môn thể thao này chủ yếu làm nhón gót và tăng hoạt động của khớp cổ chân và cơ bắp chân. Tốt nhất là tập mỗi ngày 2 lần, mỗi lần ít nhất 30 phút.

 

Ban Biên tập Y khoa Việt Nam

-----------------------------------

Nguồn:

https://www.vinmec.com/vi/tin-tuc/thong-tin-suc-khoe/suy-tinh-mach-la-benh-gi-co-nguy-hiem-khong/

http://bvnguyentriphuong.com.vn/cac-chuyen-khoa/khoi-noi/co-xuong-khop/suy-tinh-mach-man-tinh-chi-duoi.html

http://minhanhhospital.com.vn/vi/news/tin-tuc-su-kien-minh-anh/benh-suy-tinh-mach-chi-duoi-297.html

https://www.cih.com.vn/khoa-noi-khoa-ngoai/2072-thoi-quen-khong-tot-cho-nguoi-bi-suy-gian-tinh-mach.html

http://benhvien108.vn/suy-tinh-mach-man-tinh-mot-nguyen-nhan-gay-tu-vong-it-nguoi-biet-den.htm