Nhà sản xuất

Janssen-Cilag

Nhà phân phối

Sapharco

Thành phần

Mỗi viên: Methylphenidate HCl 18mg, 27mg, 36mg hoặc 54mg.

Mô tả

Viên nén hình con nhộng màu vàng có in chữ “alza 18” trên một mặt bằng mực đen.
Viên nén hình con nhộng màu xám có in chữ “alza 27” trên một mặt bằng mực đen.
Viên nén hình con nhộng màu trắng có in chữ “alza 36” trên một mặt bằng mực đen.
Viên nén hình con nhộng màu nâu đỏ có in chữ “alza 54” trên một mặt bằng mực đen.

Dược lực học

Nhóm dược lý: Kích thích thần kinh giao cảm trung ương. Mã ATC: N06BA04.
Cơ chế tác dụng
Methylphenidat HCl là một chất kích thích nhẹ thần kinh trung ương (CNS). Cách thức tác động trong điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) chưa được biết. Methylphenidat được cho là ngăn chặn sự tái hấp thu noradrenaline và dopamine vào neuron tiền synap và tăng sự giải phóng các monoamine này vào khoảng ngoài tế bào thần kinh. Methylphenidat là một hỗn hợp racemic bao gồm các đồng phân d và l. Đồng phân d có hoạt tính dược lý mạnh hơn so với đồng phân l.
Hiệu quả và an toàn trên lâm sàng
Trong các nghiên cứu lâm sàng then chốt, CONCERTA đã được đánh giá trên 321 bệnh nhân đã ổn định với các chế phẩm giải phóng nhanh (immediate release-IR) của methylphenidat và trên 95 bệnh nhân chưa được điều trị bằng các chế phẩm dạng IR của methylphenidat.
Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy hiệu quả của CONCERTA đã được duy trì đến 12 giờ sau khi dùng thuốc khi chế phẩm được uống một lần mỗi ngày vào buổi sáng.
Tám trăm chín mươi chín (899) người lớn bị ADHD từ 18 đến 65 tuổi được đánh giá trong ba nghiên cứu mù đôi có đối chứng với giả dược trong thời gian từ 5 đến 13 tuần. Một số hiệu quả ngắn hạn đã được chứng minh đối với CONCERTA trong khoảng liều từ 18 đến 72 mg/ngày, nhưng hiệu quả này đã không được thể hiện ổn định với thời gian điều trị trên 5 tuần. Trong một nghiên cứu, trong đó đáp ứng được định nghĩa là giảm ít nhất 30% từ điểm ban đầu về tổng số điểm triệu chứng ADHD ở tuần 5 (điểm kết thúc) trên Thang đánh giá ADHD ở người lớn Conners (Conners' Adult ADHD Rating Scales-CAARS) và đã phân tích với giả định các đối tượng bị mất dữ liệu tại lần thăm khám cuối cùng là những bệnh nhân không có đáp ứng, tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng điều trị với CONCERTA ở các mức liều 18, 36, hay 72 mg/ngày cao hơn đáng kể so với giả dược. Trong hai nghiên cứu khác, khi phân tích với giả định các đối tượng bị mất dữ liệu tại lần thăm khám cuối cùng là những người không đáp ứng, mặc dù có lợi thế về số học của CONCERTA so với giả dược, nhưng tỷ lệ bệnh nhân đạt các tiêu chí được xác định trước về đáp ứng, chưa có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Dược động học

Hấp thu:
Methylphenidat dễ hấp thu. Sau khi uống CONCERTA ở người lớn thuốc ở lớp vỏ ngoài sẽ hòa tan, tạo ra nồng độ thuốc tối đa ban đầu trong khoảng từ 1 đến 2 giờ. Methylphenidat được chứa trong hai lớp thuốc bên trong được giải phóng dần dần trong vài giờ tiếp theo. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong khoảng 6-8 giờ, sau đó nồng độ methylphenidat trong huyết tương sẽ giảm dần. CONCERTA uống một lần mỗi ngày hạn chế sự dao động giữa nồng độ đỉnh và nồng độ đáy của dạng methylphenidat phóng thích ngay dùng ba lần mỗi ngày. Mức độ hấp thu của CONCERTA một lần mỗi ngày thường tương đương với các chế phẩm giải phóng ngay thông thường.
Sau khi uống CONCERTA 18 mg một lần mỗi ngày ở 36 người lớn, các thông số dược động học trung bình là: Cmax 3,7 ± 1,0 (ng/mL), Tmax 6,8 ± 1,8 (h), AUCinf 41,8 ± 13,9 (ng.h/mL) và t½ 3,5 ± 0,4 (h).
Không có sự khác biệt về dược động học của CONCERTA được ghi nhận khi dùng đơn liều và chế độ liều một lần một ngày lặp lại, cho thấy không có sự tích lũy thuốc đáng kể. AUC và t1/2 sau khi dùng liều một lần mỗi ngày, lặp lại tương tự như sau liều đầu tiên của CONCERTA 18 mg.
Sau khi dùng CONCERTA đơn liều 18, 36, và 54 mg/ngày cho người lớn, Cmax và AUC(0-inf) của methylphenidat tỷ lệ với liều dùng.
Phân bố: Nồng độ methylphenidat trong huyết tương ở người trưởng thành giảm theo hàm mũ bậc hai sau khi uống. Thời gian bán thải của methylphenidat ở người lớn sau khi uống CONCERTA là khoảng 3,5 giờ. Tỷ lệ gắn kết protein của methylphenidat và các chất chuyển hóa của nó là khoảng 15%. Thể tích phân bố biểu kiến của methylphenidat là khoảng 13 lít/kg.
Chuyển dạng sinh học: Ở người, methylphenidat được chuyển hóa chủ yếu bằng cách de-este hóa thành alpha-phenyl-piperidine acetic acid (PPA, nồng độ xấp xỉ gấp 50 lần hoạt chất dạng không biến đổi) có ít hoặc không có hoạt tính dược lý. Ở người lớn, sự chuyển hóa của CONCERTA một lần mỗi ngày được đánh giá bởi quá trình chuyển hóa thành PPA, là tương tự như methylphenidat ba lần mỗi ngày. Sự chuyển hóa của CONCERTA đơn liều và liều một lần mỗi ngày lặp lại, là tương tự nhau.
Thải trừ: Thời gian bán thải của methylphenidat ở người lớn sau khi dùng CONCERTA là khoảng 3,5 giờ. Sau khi uống, khoảng 90% liều được bài xuất qua nước tiểu và từ 1 đến 3% trong phân, dưới dạng các chất chuyển hóa trong vòng 48 đến 96 giờ. Lượng nhỏ methylphenidat dạng không biến đổi được tìm thấy trong nước tiểu (dưới 1%). Chất chuyển hóa chính trong nước tiểu là alpha-phenyl-piperidine acetic acid (60-90%).
Sau khi uống liều methylphenidat đã đánh dấu phóng xạ ở người, khoảng 90% hoạt tính phóng xạ đã được tìm thấy trong nước tiểu. Chất chuyển hóa qua nước tiểu chủ yếu là PPA, chiếm khoảng 80% liều dùng.
Ảnh hưởng của thức ăn: Ở các bệnh nhân, không có sự khác biệt về cả dược động học hoặc dược lực học của CONCERTA khi uống sau bữa ăn sáng giàu chất béo vào khi bụng đói.
Dân số đặc biệt
Giới tính: Ở người lớn khỏe mạnh, giá trị trung bình của AUC(0-inf) đã được điều chỉnh theo liều của CONCERTA là 36,7 ng.h/mL ở nam giới và 37,1 ng.h/mL ở phụ nữ, không có sự khác biệt giữa hai nhóm.
Chủng tộc: Ở người lớn khỏe mạnh dùng CONCERTA, AUC(0-inf) hiệu chỉnh theo liều là thống nhất giữa các nhóm chủng tộc; tuy nhiên, cỡ mẫu có thể không đủ lớn để phát hiện các tham biến về dân tộc trong phân tích dược động học.
Tuổi: Dược động học của CONCERTA chưa được nghiên cứu ở trẻ em dưới 6 tuổi. Ở trẻ từ 7-12 tuổi, dược động học của CONCERTA sau khi uống 18, 36 và 54 mg là (trung bình±SD): Cmax 6,0 ± 1,3; 11,3 ± 2,6 và 15,0 ± 3,8 ng/mL tương ứng, Tmax 9,4 ± 0,02; 8,1 ± 1,1; 9,1 ± 2,5 giờ, tương ứng và AUC0-11,5 50,4 ± 7,8; 87,7 ± 18,2; 121,5 ± 37,3 ng.h/mL, tương ứng.
Suy thận: Không có kinh nghiệm sử dụng CONCERTA ở bệnh nhân suy thận. Sau khi uống methylphenidat đã được gắn phóng xạ ở người, methylphenidat được chuyển hóa nhiều và khoảng 80% hoạt tính phóng xạ đã được bài xuất qua nước tiểu dưới dạng PPA. Do sự thanh thải qua thận không phải là một con đường thải trừ quan trọng của methylphenidat nên sự suy giảm chức năng thận sẽ ít có ảnh hưởng đến dược động học của CONCERTA.
Suy gan: Không có kinh nghiệm sử dụng CONCERTA ở bệnh nhân suy gan.

An toàn tiền lâm sàng

Tính gây ung thư
Trong các nghiên cứu kéo dài cả đời ở chuột cống và chuột nhắt, số lượng khối u gan ác tính tăng lên chỉ được ghi nhận ở chuột nhắt đực. Ý nghĩa của phát hiện này đối với người là chưa rõ.
Methylphenidat không ảnh hưởng đến hành vi sinh sản hoặc khả năng sinh sản khi dùng nhiều liều thấp tương tự liều trên lâm sàng.
Mang thai-sự phát triển của phôi/thai
Methylphenidat không được coi là chất gây quái thai ở chuột cống và thỏ. Độc tính trên thai (ví dụ, tổng số thai mất) và độc tính trên mẹ được ghi nhận ở chuột cống ở các mức liều gây độc tính cho động vật mẹ.

Chỉ định/Công dụng

Rối loạn tăng động/giảm chú ý (Attention-Deficit/Hyperactivity Disorder-ADHD)
CONCERTA được chỉ định như là một phần của chương trình điều trị toàn diện cho các trẻ em từ 6 tuổi trở lên bị Rối loạn Tăng động Giảm Chú ý (ADHD), khi các biện pháp điều trị không dùng thuốc cho thấy không đủ hiệu quả. Điều trị cần được giám sát bởi các chuyên gia trong lĩnh vực rối loạn hành vi ở trẻ em. Cần thực hiện chẩn đoán theo các tiêu chuẩn của DSM hoặc các hướng dẫn của ICD hiện hành và cần dựa trên thông tin về tiền sử và đánh giá đầy đủ bệnh nhân. Không thể đưa ra chẩn đoán chỉ đơn thuần dựa trên một hoặc nhiều triệu chứng đang có.
Nguyên nhân cụ thể của hội chứng này là chưa rõ và hiện không có xét nghiệm đơn lẻ nào để chẩn đoán. Chẩn đoán đầy đủ cần sử dụng các nguồn lực về y khoa và nguồn lực xã hội, giáo dục và tâm lý chuyên khoa.
Một chương trình điều trị toàn diện thường bao gồm các biện pháp về tâm lý, giáo dục và xã hội cũng như điều trị bằng thuốc và nhằm mục đích làm ổn định những trẻ em có hội chứng hành vi đặc trưng bởi các triệu chứng có thể bao gồm tiền sử mạn tính của các triệu chứng như thời gian chú ý ngắn, phân tán chú ý, cảm xúc không ổn định, bốc đồng, tăng động mức độ trung bình đến nặng, các dấu hiệu thần kinh nhẹ và EEG bất thường. Khả năng học tập có thể giảm hoặc không.
CONCERTA không được chỉ định ở tất cả trẻ em bị ADHD và quyết định sử dụng thuốc phải dựa trên đánh giá rất kỹ về mức độ nghiêm trọng và tính mạn tính của các triệu chứng ở trẻ trong mối tương quan với lứa tuổi của trẻ.
Việc bố trí học tập phù hợp là thiết yếu, và sự can thiệp về tâm lý xã hội nói chung là cần thiết. Nếu các biện pháp không dùng thuốc đơn độc cho thấy không đủ hiệu quả, quyết định kê đơn chất kích thích phải dựa trên đánh giá nghiêm ngặt về mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng ở trẻ. Luôn sử dụng methylphenidat phù hợp với chỉ định được cấp phép và theo các hướng dẫn chẩn đoán/kê đơn.

Liều lượng & Cách dùng

Khởi đầu điều trị phải dưới sự giám sát của một chuyên gia về rối loạn hành vi ở trẻ em và/hoặc thanh thiếu niên.
Sàng lọc trước điều trị
Trước khi kê đơn, cần phải tiến hành đánh giá cơ bản về tình trạng tim mạch của bệnh nhân bao gồm huyết áp và nhịp tim. Cần ghi chép tiền sử toàn diện về các loại thuốc dùng đồng thời, các triệu chứng hoặc rối loạn tâm thần và bệnh lý đi kèm trước đó hoặc hiện có, tiền sử gia đình về tử vong đột ngột do bệnh lý tim hoặc không rõ nguyên nhân và ghi lại chính xác chiều cao và cân nặng trước khi điều trị trên biểu đồ tăng trưởng (xem các phần Chống chỉ định và Cảnh báo).
Giám sát trong quá trình điều trị
Cần giám sát liên tục quá trình tăng trưởng, tình trạng tâm thần và tim mạch (xem phần Cảnh báo).
• Cần ghi lại huyết áp và nhịp tim trên biểu đồ phân vị mỗi khi điều chỉnh liều và sau đó ít nhất 6 tháng một lần;
• Cần ghi lại chiều cao, cân nặng và sự thèm ăn ít nhất mỗi 6 tháng với cùng biểu đồ tăng trưởng;
• Cần giám sát sự xuất hiện mới hoặc tình trạng xấu đi của các rối loạn tâm thần đã có mỗi khi điều chỉnh liều và sau đó ít nhất mỗi 6 tháng và mỗi lần thăm khám.
Bệnh nhân cần được theo dõi về nguy cơ khi chuyển đổi mục đích sử dụng, sử dụng sai và lạm dụng methylphenidat.
Liều dùng
Hiệu chỉnh liều
Cần hiệu chỉnh liều cẩn thận khi bắt đầu điều trị với CONCERTA. Việc hiệu chỉnh liều nên được bắt đầu ở liều thấp nhất có thể. Đã có hàm lượng 27 mg cho những bác sỹ muốn kê đơn một liều ở khoảng giữa liều 18 mg và 36 mg.
Có thể có các hàm lượng khác của sản phẩm này và các sản phẩm chứa methylphenidat khác.
Liều dùng có thể được điều chỉnh theo từng bậc 18 mg. Nói chung, điều chỉnh liều có thể tiến hành với khoảng cách mỗi tuần.
Liều tối đa mỗi ngày của CONCERTA là 54 mg.
Bệnh nhân mới được điều trị Methylphenidat: Kinh nghiệm lâm sàng với CONCERTA còn hạn chế ở những bệnh nhân này (xem phần Dược lực học). CONCERTA không được chỉ định ở tất cả trẻ em có hội chứng ADHD. Liều thấp hơn của các dạng bào chế methylphenidat tác dụng ngắn có thể được xem là đủ đối với bệnh nhân mới điều trị với methylphenidat. Cần phải hiệu chỉnh liều thận trọng bởi các bác sỹ chịu trách nhiệm điều trị để tránh liều cao methylphenidat không cần thiết. Liều khởi đầu khuyến cáo của CONCERTA đối với những bệnh nhân hiện không dùng methylphenidat, hoặc đối với những bệnh nhân đang dùng các chất kích thích khác ngoài methylphenidat, là 18 mg một lần mỗi ngày.
Bệnh nhân hiện đang sử dụng Methylphenidat: Liều khuyến cáo của CONCERTA cho những bệnh nhân hiện đang dùng methylphenidat ba lần mỗi ngày ở các mức liều từ 15 đến 45 mg/ngày được trình bày trong bảng 1. Các khuyến cáo về liều lượng được dựa trên chế độ dùng liều hiện tại và đánh giá lâm sàng.

Nếu không có cải thiện sau khi điều chỉnh liều thích hợp trong khoảng thời gian một tháng, nên ngừng dùng thuốc.
Điều trị dài hạn (hơn 12 tháng) ở trẻ em và thanh thiếu niên: Tính an toàn và hiệu quả của việc sử dụng dài hạn methylphenidat chưa được đánh giá một cách hệ thống trong các thử nghiệm có đối chứng. Điều trị bằng methylphenidat nên và cần thiết là có thời gian xác định. Thường ngừng điều trị methylphenidat trong hoặc sau tuổi dậy thì. Bác sỹ đã chọn sử dụng methylphenidat trong thời gian kéo dài (trên 12 tháng) ở trẻ em và thanh thiếu niên bị ADHD cần định kỳ đánh giá lại lợi ích dài hạn của thuốc đối với từng bệnh nhân với những khoảng thời gian thử ngừng thuốc để đánh giá chức năng của bệnh nhân khi không điều trị bằng thuốc. Khuyến cáo cần thử ngừng methylphenidat ít nhất một lần mỗi năm để đánh giá tình trạng của trẻ (nên áp dụng trong khoảng thời gian nghỉ học). Có thể vẫn duy trì sự cải thiện khi thuốc được ngừng tạm thời hoặc lâu dài.
Giảm liều và ngừng thuốc: Phải ngừng điều trị nếu các triệu chứng không cải thiện sau khi điều chỉnh liều thích hợp trong khoảng thời gian một tháng. Nếu các triệu chứng nặng thêm bất thường hoặc các biến cố bất lợi nghiêm trọng xảy ra, cần giảm liều hoặc ngừng thuốc.
Người lớn: Ở thanh thiếu niên có các triệu chứng kéo dài đến tuổi trưởng thành và ở những người đã có được lợi ích rõ ràng từ việc điều trị, có thể thích hợp để tiếp tục điều trị cho đến giai đoạn trưởng thành. Tuy nhiên, bắt đầu điều trị với CONCERTA ở người lớn là không phù hợp (xem các phần Cảnh báo và Dược lực học).
Người cao tuổi: Không nên dùng methylphenidat ở người cao tuổi. An toàn và hiệu quả chưa được thiết lập ở nhóm tuổi này.
Trẻ em dưới 6 tuổi: Không nên dùng methylphenidat ở trẻ em dưới 6 tuổi. An toàn và hiệu quả ở nhóm tuổi này chưa được thiết lập.
Cách dùng
CONCERTA phải được nuốt nguyên viên với chất lỏng, và không được nhai, chia nhỏ hoặc nghiền nát (xem phần Cảnh báo).
CONCERTA có thể được dùng cùng với thức ăn hoặc không có thức ăn (xem phần Dược động học).
CONCERTA được uống một lần mỗi ngày vào buổi sáng.

Cảnh báo

Methylphenidat không được chỉ định ở tất cả trẻ em bị ADHD và quyết định sử dụng thuốc phải dựa trên đánh giá rất kỹ về mức độ nghiêm trọng và tính mạn tính của các triệu chứng ở trẻ trong mối tương quan với lứa tuổi của trẻ.
Sử dụng dài hạn (trên 12 tháng) ở trẻ em và thanh thiếu niên
Tính an toàn và hiệu quả của việc sử dụng dài hạn methylphenidat chưa được đánh giá một cách hệ thống trong các thử nghiệm có đối chứng. Điều trị bằng methylphenidat nên và cần thiết là có thời gian xác định. Thường ngừng điều trị methylphenidat trong hoặc sau tuổi dậy thì. Bệnh nhân đang điều trị dài hạn (tức là trên 12 tháng) phải được tiếp tục theo dõi chặt chẽ theo hướng dẫn trong các phần Liều lượng và cách dùng và Cảnh báo về tình trạng tim mạch, tăng trưởng, thèm ăn, các rối loạn tâm thần mới xuất hiện hoặc tình trạng xấu đi nếu đã có các rối loạn này. Các rối loạn về tâm thần cần theo dõi được mô tả dưới đây, bao gồm (nhưng không giới hạn trong) rối loạn tic về vận động hoặc phát âm, hành vi gây hấn hoặc thù địch, kích động, lo âu, trầm cảm, loạn thần, hưng cảm, hoang tưởng, dễ bực tức, thiếu tính tự giác, triệu chứng cai thuốc và tư duy kiên định quá mức.
Bác sỹ đã chọn sử dụng methylphenidat trong thời gian kéo dài (trên 12 tháng) ở trẻ em và thanh thiếu niên bị ADHD cần định kỳ đánh giá lại lợi ích dài hạn của thuốc đối với từng bệnh nhân với những khoảng thời gian thử ngừng thuốc để đánh giá chức năng của bệnh nhân khi không điều trị bằng thuốc. Khuyến cáo cần thử ngừng methylphenidat ít nhất một lần mỗi năm để đánh giá tình trạng của trẻ (nên áp dụng trong khoảng thời gian nghỉ học). Có thể vẫn duy trì sự cải thiện, khi thuốc được ngừng tạm thời hoặc lâu dài.
Sử dụng ở người lớn: An toàn và hiệu quả chưa được thiết lập đối với việc khởi đầu điều trị ở người lớn hoặc kéo dài thường quy việc điều trị khi bệnh nhân trên 18 tuổi. Nếu việc ngừng điều trị không thành công khi một thanh thiếu niên đã đến 18 tuổi thì có thể cần tiếp tục điều trị vào giai đoạn trưởng thành. Sự cần thiết phải điều trị thêm cho những người lớn này cần được xem xét thường xuyên và tiến hành hàng năm.
Sử dụng ở người cao tuổi: Không nên dùng methylphenidat ở người cao tuổi. An toàn và hiệu quả chưa được thiết lập ở nhóm tuổi này.
Sử dụng ở trẻ em dưới 6 tuổi: Không nên dùng methylphenidat ở trẻ em dưới 6 tuổi. An toàn và hiệu quả ở nhóm tuổi này chưa được thiết lập.
Tình trạng tim mạch
Bệnh nhân đang được cân nhắc để điều trị bằng các thuốc kích thích cần có một tiền sử đầy đủ (bao gồm đánh giá tiền sử gia đình về đột tử do bệnh lý tim hoặc không rõ nguyên nhân hoặc loạn nhịp ác tính) và khám sức khoẻ để đánh giá sự có mặt của bệnh tim, và cần có chuyên gia tim mạch đánh giá sâu hơn nếu các phát hiện ban đầu cho thấy có tiền sử hoặc bệnh lý này. Bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng như đánh trống ngực, đau ngực gắng sức, ngất xỉu không rõ nguyên nhân, khó thở hoặc các triệu chứng khác gợi ý bệnh tim trong khi điều trị bằng methylphenidat cần được bác sỹ tim mạch thăm khám ngay.
Phân tích dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng của methylphenidat ở trẻ em và thanh thiếu niên bị ADHD cho thấy rằng những bệnh nhân sử dụng methylphenidat có thể thường bị thay đổi huyết áp tâm trương và huyết áp tâm thu trên 10 mmHg so với nhóm chứng. Hậu quả lâm sàng ngắn hạn và dài hạn của những ảnh hưởng trên tim mạch này ở trẻ em và thanh thiếu niên chưa được biết. Không thể loại trừ khả năng xảy ra các biến chứng lâm sàng do các tác dụng được quan sát trong các thử nghiệm lâm sàng đặc biệt khi điều trị trong lứa tuổi trẻ em/thanh thiếu niên kéo dài đến giai đoạn trưởng thành. Thận trọng trong điều trị bệnh nhân có các tình trạng bệnh lý nền có thể bị nặng hơn do tăng huyết áp hoặc nhịp tim. Xem phần Chống chỉ định về các tình trạng có chống chỉ định điều trị methylphenidat.
Tình trạng tim mạch cần được theo dõi cẩn thận. Cần ghi lại huyết áp và nhịp tim trên biểu đồ bách phân vị mỗi khi điều chỉnh liều và sau đó ít nhất mỗi 6 tháng.
Chống chỉ định sử dụng methylphenidat trong một số rối loạn tim mạch đã có trước đó, trừ khi đã có được những lời khuyên của chuyên gia về tim mạch nhi khoa (xem phần Chống chỉ định).
Đột tử và các bất thường về cấu trúc tim có sẵn hoặc các rối loạn tim nghiêm trọng khác: Đột tử đã được báo cáo là có liên quan đến việc sử dụng các chất kích thích hệ thần kinh trung ương ở các liều thường dùng ở trẻ em, một số trường hợp trong đó đã có bất thường cấu trúc tim hoặc các vấn đề về tim nghiêm trọng khác. Mặc dù chỉ riêng một số vấn đề nghiêm trọng về tim đã có thể làm tăng nguy cơ đột tử, các chế phẩm kích thích không được khuyến cáo ở trẻ em hoặc thanh thiếu niên đã có bất thường về cấu trúc tim, bệnh cơ tim, rối loạn nhịp tim nghiêm trọng hoặc các vấn đề tim mạch nghiêm trọng khác có thể khiến họ tăng nguy cơ dễ bị tổn thương với các tác dụng giống giao cảm của một loại thuốc kích thích.
Dùng sai mục đích và các biến cố tim mạch: Việc dùng sai mục đích chất kích thích hệ thần kinh trung ương có thể liên quan đến đột tử và các biến cố bất lợi nghiêm trọng về tim mạch khác.
Các rối loạn mạch máu não
Xem phần Chống chỉ định về các bệnh mạch máu não bị chống chỉ định điều trị methylphenidat. Bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ bổ sung (như tiền sử bệnh tim mạch, các thuốc dùng đồng thời làm tăng huyết áp) nên được đánh giá tại mỗi lần khám về các dấu hiệu và triệu chứng thần kinh sau khi bắt đầu điều trị bằng methylphenidat.
Viêm mạch não dường như là một phản ứng đặc ứng rất hiếm gặp khi điều trị với methylphenidat. Có rất ít bằng chứng cho thấy rằng có thể xác định bệnh nhân có nguy cơ cao hơn và triệu chứng khởi phát ban đầu có thể là dấu hiệu đầu tiên của một vấn đề lâm sàng đã có. Chẩn đoán sớm, dựa trên một chỉ số nghi ngờ cao, có thể cho phép ngừng ngay methylphenidat và điều trị sớm. Vì thế chẩn đoán nên được xem xét ở bất kỳ bệnh nhân nào xuất hiện các triệu chứng thần kinh mới phù hợp với chứng thiếu máu não trong khi điều trị bằng methylphenidat. Những triệu chứng này có thể bao gồm nhức đầu dữ dội, tê, yếu, liệt, và suy giảm phối hợp, thị lực, phát âm, ngôn ngữ hoặc trí nhớ.
Không chống chỉ định điều trị methylphenidat ở những bệnh nhân bại não liệt nửa người.
Các rối loạn tâm thần: Các rối loạn tâm thần mắc đồng thời trong ADHD là phổ biến và cần được tính đến khi kê đơn các sản phẩm kích thích. Trong trường hợp có các triệu chứng tâm thần xuất hiện hoặc có đợt bùng phát các rối loạn tâm thần trước đó, không nên dùng methylphenidat trừ khi lợi ích vượt trội nguy cơ đối với bệnh nhân.
Sự xuất hiện hoặc tình trạng xấu đi của các rối loạn tâm thần cần được giám sát mỗi khi điều chỉnh liều, sau đó ít nhất mỗi 6 tháng, và tại mỗi lần thăm khám; việc ngừng điều trị có thể là thích hợp.
Đợt bùng phát các triệu chứng loạn thần hoặc hưng cảm đã có từ trước: Ở các bệnh nhân loạn thần, dùng methylphenidat có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng rối loạn hành vi và rối loạn tư duy.
Sự xuất hiện các triệu chứng loạn thần hoặc hưng cảm mới: Các triệu chứng loạn thần liên quan đến điều trị (ảo thị/ảo giác xúc giác/ảo thanh và hoang tưởng) hoặc hưng cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên không có tiền sử trước đó về các bệnh lý loạn thần hoặc hưng cảm, có thể do methylphenidat gây ra ở các liều thường dùng. Nếu triệu chứng hưng cảm hoặc loạn thần xảy ra, cần xem xét đến vai trò nguyên nhân có thể có của methylphenidat, và ngừng điều trị có thể là thích hợp.
Hành vi gây hấn hoặc thù địch: Sự xuất hiện hoặc trầm trọng hơn của hành vi gây hấn hoặc thù địch có thể là do điều trị bằng chất kích thích. Các bệnh nhân điều trị bằng methylphenidat cần được theo dõi chặt chẽ về sự xuất hiện hoặc tình trạng xấu đi của hành vi gây hấn hoặc thù địch khi khởi đầu điều trị, mỗi khi điều chỉnh liều và sau đó ít nhất mỗi 6 tháng và mỗi lần thăm khám. Các bác sỹ cần đánh giá sự cần thiết phải điều chỉnh phác đồ điều trị ở những bệnh nhân có những thay đổi về hành vi lưu ý rằng việc hiệu chỉnh tăng dần hoặc giảm dần liều có thể là thích hợp. Có thể xem xét tạm ngừng điều trị.
Xu hướng tự sát: Bệnh nhân xuất hiện ý tưởng hoặc hành vi tự sát trong quá trình điều trị ADHD cần được bác sỹ đánh giá ngay lập tức. Cần cân nhắc tình trạng xấu đi của bệnh lý tâm thần đã có và vai trò nhân quả có thể có của việc điều trị methylphenidat. Có thể cần điều trị một tình trạng bệnh lý tâm thần đã có và cần cân nhắc có thể ngừng methylphenidat.
Tic: Methylphenidat có liên quan đến sự khởi phát hoặc làm xấu đi tình trạng tic vận động và phát âm. Cũng đã có báo cáo về tình trạng xấu đi của hội chứng Tourette. Cần đánh giá tiền sử gia đình và cần đánh giá lâm sàng về tic hoặc hội chứng Tourette ở trẻ em trước khi sử dụng methylphenidat. Cần giám sát thường xuyên bệnh nhân về sự xuất hiện hoặc tình trạng xấu đi của tic trong quá trình điều trị bằng methylphenidat. Cần giám sát mỗi khi điều chỉnh liều và sau đó ít nhất mỗi 6 tháng hoặc mỗi lần thăm khám.
Lo âu, kích động hoặc căng thẳng: Methylphenidat có liên quan đến tình trạng xấu đi của sự lo âu, kích động hoặc căng thẳng đã có. Cần đánh giá lâm sàng về lo âu, kích động hoặc căng thẳng trước khi sử dụng methylphenidat và cần phải thường xuyên theo dõi bệnh nhân về sự xuất hiện hoặc tình trạng xấu đi của các triệu chứng này trong khi điều trị, mỗi khi điều chỉnh liều và sau đó ít nhất mỗi 6 tháng hoặc mỗi lần thăm khám.
Các dạng rối loạn lưỡng cực: Cần có các chăm sóc đặc biệt khi sử dụng methylphenidat để điều trị ADHD ở những bệnh nhân bị mắc đồng thời rối loạn lưỡng cực (bao gồm Rối loạn Lưỡng cực typ I hoặc các dạng rối loạn lưỡng cực khác không được điều trị) do lo ngại về việc có thể xảy ra đợt hưng cảm/ trạng thái hỗn hợp hưng trầm cảm ở những bệnh nhân này. Trước khi bắt đầu điều trị bằng methylphenidat, bệnh nhân có mắc kèm các triệu chứng trầm cảm nên được sàng lọc đầy đủ để xác định xem họ có nguy cơ bị rối loạn lưỡng cực hay không; biện pháp sàng lọc như vậy nên bao gồm khai thác tiền sử tâm thần chi tiết, bao gồm tiền sử gia đình về tự sát, rối loạn lưỡng cực, và trầm cảm. Giám sát chặt chẽ liên tục là rất cần thiết ở những bệnh nhân này (xem phần trên 'Các rối loạn tâm thần' và phần Liều lượng và cách dùng). Cần theo dõi các bệnh nhân về các triệu chứng mỗi khi điều chỉnh liều, sau đó ít nhất mỗi 6 tháng và mỗi lần thăm khám.
Tăng trưởng
Mức độ tăng cân giảm vừa phải và tăng trưởng chậm đã được báo cáo với việc sử dụng lâu dài methylphenidat ở trẻ em.
Các tác dụng của methylphenidat lên chiều cao và trọng lượng cuối cùng chưa được biết và đang được nghiên cứu.
Cần theo dõi quá trình tăng trưởng trong khi điều trị methylphenidat: cần ghi chép chiều cao, cân nặng và sự thèm ăn ít nhất mỗi 6 tháng trên cùng một biểu đồ tăng trưởng. Bệnh nhân không tăng trưởng hoặc không đạt được chiều cao hoặc cân nặng như mong đợi có thể cần phải tạm ngừng điều trị.
Co giật
Cần sử dụng thận trọng methylphenidat ở bệnh nhân bị bệnh động kinh. Methylphenidat có thể làm giảm ngưỡng co giật ở những bệnh nhân có tiền sử bị cơn động kinh trước đây, ở những bệnh nhân có bất thường EEG trước đó mà không có cơn giật, và hiếm khi ở những bệnh nhân không có tiền sử co giật và không có bất thường về EEG. Nếu tần suất cơn động kinh tăng lên hoặc có cơn động kinh khởi phát mới, nên ngừng methylphenidat.
Lạm dụng, dùng sai và chuyển đổi mục đích sử dụng
Bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thận nguy cơ khi chuyển đổi mục đích sử dụng, dùng sai mục đích và lạm dụng methylphenidat.
Methylphenidat nên được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân đã biết phụ thuộc thuốc hoặc cồn vì có khả năng lạm dụng, sử dụng sai mục đích hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng.
Lạm dụng mạn tính methylphenidat có thể dẫn đến dung nạp và phụ thuộc về tâm lý đáng kể kèm theo hành vi bất thường ở các mức độ khác nhau. Có thể xảy ra các đợt loạn thần Frank, đặc biệt là khi lạm dụng thuốc đường tiêm.
Cần cân nhắc đến độ tuổi của bệnh nhân, sự có mặt của các yếu tố nguy cơ đối với rối loạn sử dụng chất (như mắc đồng thời rối loạn thách thức chống đối hoặc cư xử và rối loạn lưỡng cực), trước đây hoặc hiện tại đang lạm dụng chất, khi quyết định một liệu trình điều trị ADHD. Cần thận trọng đối với các bệnh nhân không ổn định về cảm xúc, như những người có tiền sử phụ thuộc cồn hoặc ma túy, do những bệnh nhân này có thể tự ý tăng liều.
Đối với một số bệnh nhân có nguy cơ cao về lạm dụng chất, methylphenidat hoặc các chất kích thích khác có thể không phù hợp và có thể cân nhắc điều trị bằng các biện pháp không sử dụng chất kích thích.
Cai thuốc: Cần giám sát cẩn thận trong quá trình ngừng thuốc, vì quá trình này có thể làm bộc lộ tình trạng trầm cảm cũng như hoạt động quá mức mạn tính. Một số bệnh nhân có thể cần theo dõi lâu dài.
Cần giám sát cẩn thận trong thời gian ngừng thuốc trên những bệnh nhân có lạm dụng vì có thể xảy ra trầm cảm nặng.
Mệt mỏi: Không dùng methylphenidat để dự phòng hoặc điều trị các tình trạng mệt mỏi thông thường.
Tá dược: Không dung nạp galactose: Sản phẩm này có chứa lactose, những bệnh nhân mắc các bệnh di truyền hiếm gặp về không dung nạp galactose, thiếu hụt Lapp lactase hoặc kém hấp thu glucose-galactose không nên dùng thuốc này.
Lựa chọn công thức bào chế methylphenidat: Việc lựa chọn công thức bào chế của các sản phẩm chứa methylphenidat phải được quyết định bởi các chuyên gia điều trị trên cơ sở từng bệnh nhân và phụ thuộc vào thời gian dự kiến có hiệu quả.
Sàng lọc thuốc: Sản phẩm này chứa methylphenidat có thể gây ra tình trạng dương tính giả của xét nghiệm amphetamine, đặc biệt là với xét nghiệm sàng lọc miễn dịch.
Bệnh nhân suy thận hoặc suy gan: Không có kinh nghiệm với việc sử dụng methylphenidat ở bệnh nhân suy thận hoặc suy gan.
Các ảnh hưởng trên huyết học: Tính an toàn dài hạn của điều trị bằng methylphenidat chưa được biết đầy đủ. Nên ngừng điều trị trong trường hợp giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, thiếu máu hoặc có các thay đổi khác, bao gồm cả những dấu hiệu của rối loạn nghiêm trọng ở thận hoặc gan.
Khả năng gây tắc đường tiêu hóa
Bởi vì viên nén CONCERTA không bị biến dạng và không thay đổi hình dạng trong đường tiêu hóa (GI), không nên dùng cho những bệnh nhân đã bị hẹp đường tiêu hóa nặng trước đó (do bệnh lý hoặc do điều trị) hoặc ở những bệnh nhân bị mắc chứng khó nuốt hoặc gặp khó khăn đáng kể khi nuốt viên thuốc. Có những báo cáo hiếm gặp về các triệu chứng tắc nghẽn ở những bệnh nhân bị hẹp đường tiêu hóa liên quan đến việc uống thuốc ở dạng bào chế giải phóng kéo dài mà viên không bị biến dạng.
Do thiết kế giải phóng kéo dài của viên thuốc, CONCERTA chỉ sử dụng cho bệnh nhân có thể nuốt nguyên viên. Bệnh nhân cần được thông báo rằng CONCERTA phải được nuốt nguyên viên với chất lỏng. Không được nhai, chia nhỏ, hoặc nghiền các viên nén. Thuốc được chứa trong một vỏ bao không hấp thu được thiết kế để giải phóng thuốc với một tốc độ có kiểm soát. Vỏ viên nén được thải trừ khỏi cơ thể; bệnh nhân không nên lo lắng nếu thỉnh thoảng họ nhận thấy trong phân cái gì đó trông giống như một viên thuốc.
Tác dụng trên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Methylphenidat có thể gây chóng mặt, buồn ngủ và rối loạn thị giác bao gồm khó khăn về điều tiết, nhìn đôi và nhìn mờ. Nó có thể ảnh hưởng ở mức độ trung bình đến khả năng lái xe và vận hành máy móc. Bệnh nhân cần được cảnh báo về những tác dụng có thể xảy ra này và khuyên rằng nếu bị ảnh hưởng, họ nên tránh các hoạt động có khả năng gây nguy hiểm như lái xe hoặc vận hành máy móc.

Quá Liều

Khi điều trị cho bệnh nhân bị quá liều, các biện pháp áp dụng cần phải tính đến việc giải phóng chậm methylphenidat từ dạng bào chế có thời gian tác dụng kéo dài.
Các dấu hiệu và triệu chứng
Quá liều cấp tính, chủ yếu là do kích thích quá mức các hệ thần kinh trung ương và giao cảm, có thể dẫn đến nôn, kích động, run, tăng phản xạ, giật cơ, co giật (có thể sau đó là hôn mê), sảng khoái, lú lẫn, ảo giác, mê sảng, đổ mồ hôi, cơn nóng bừng, đau đầu, sốt cao, nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, loạn nhịp tim, tăng huyết áp, giãn đồng tử và khô niêm mạc.
Điều trị
Không có thuốc giải độc đặc hiệu trong điều trị quá liều methylphenidat.
Điều trị bao gồm các biện pháp hỗ trợ phù hợp.
Bệnh nhân phải được bảo vệ khỏi hành vi tự gây thương tích và các kích thích bên ngoài mà có thể làm gia tăng tình trạng kích thích quá mức hiện có. Hiệu quả của than hoạt tính vẫn chưa được thiết lập.
Cần phải chăm sóc tích cực để duy trì tuần hoàn và trao đổi hô hấp đầy đủ; có thể cần các thủ thuật làm mát bên ngoài đối với triệu chứng sốt cao.
Hiệu quả của thẩm phân màng bụng hoặc thẩm phân máu ngoài cơ thể đối với quá liều methylphenidat chưa được thiết lập.

Chống chỉ định

• Quá mẫn với methylphenidat hoặc với bất kỳ tá dược nào.
• Tăng nhãn áp
• U tế bào ưa chrome
• Đang trong quá trình điều trị với các chất ức chế monoamine oxidase không hồi phục, không chọn lọc (MAO), hoặc trong vòng tối thiểu là 14 ngày kể từ khi ngừng dùng thuốc này, do nguy cơ cơn tăng huyết áp (xem phần Tương tác)
• Cường giáp hoặc Nhiễm độc giáp
• Có chẩn đoán hoặc tiền sử trầm cảm nặng, chứng chán ăn tâm lý/rối loạn chán ăn, xu hướng tự sát, các triệu chứng loạn thần, rối loạn khí sắc nặng, hưng cảm, tâm thần phân liệt, rối loạn nhân cách tâm thần/ranh giới
• Có chẩn đoán hoặc tiền sử Rối loạn (cảm xúc) Lưỡng cực (Typ 1) nặng và có tính chu kỳ (mà chưa được kiểm soát tốt)
• Đã có các rối loạn tim mạch bao gồm tăng huyết áp nặng, suy tim, bệnh tắc nghẽn động mạch, đau thắt ngực, bệnh tim bẩm sinh có ảnh hưởng huyết động đáng kể, bệnh lý cơ tim, nhồi máu cơ tim, loạn nhịp tim có thể đe dọa tính mạng và bệnh lý kênh ion (các rối loạn gây ra bởi rối loạn chức năng của các kênh ion)
• Đã có các rối loạn mạch máu não phình mạch não, các bất thường mạch máu bao gồm viêm mạch hoặc đột quỵ.

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Mang thai
Có rất ít số liệu về việc sử dụng methylphenidat ở phụ nữ có thai.
Các trường hợp độc tính tim phổi ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là nhịp tim nhanh và suy hô hấp ở thai nhi đã được báo cáo trong các báo cáo tự nguyện.
Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy bằng chứng về độc tính trên sinh sản ở liều có độc tính trên mẹ (xem phần An toàn tiền lâm sàng).
Methylphenidat không được khuyến cáo sử dụng trong thời kỳ mang thai trừ khi có quyết định lâm sàng rằng trì hoãn điều trị có thể gây nguy cơ cao hơn cho thai kỳ.
Cho con bú
Methylphenidat đã được tìm thấy trong sữa mẹ của một phụ nữ được điều trị bằng methylphenidat.
Có một báo cáo về một trẻ sơ sinh đã bị giảm trọng lượng ở mức độ không xác định trong thời gian phơi nhiễm nhưng đã hồi phục và tăng cân trở lại sau khi mẹ ngừng điều trị với methylphenidat. Nguy cơ đối với trẻ bú sữa mẹ không thể bị loại trừ.
Một quyết định có nên ngừng cho con bú hoặc ngừng/giảm điều trị bằng methylphenidat, phải dựa trên việc xem xét đến lợi ích của việc cho con bú và lợi ích của điều trị cho người mẹ.
Khả năng sinh sản
Không có tác dụng có liên quan trong các nghiên cứu tiền lâm sàng.

Tương tác

Tương tác dược động học
Chưa biết methylphenidat có thể ảnh hưởng đến nồng độ trong huyết tương của các thuốc dùng đồng thời như thế nào. Vì vậy, khuyến cáo thận trọng khi kết hợp methylphenidat với các thuốc khác, đặc biệt là những thuốc có cửa sổ điều trị hẹp.
Methylphenidat không được chuyển hóa bởi cytochrome P450 ở mức độ có ý nghĩa lâm sàng. Các chất cảm ứng hoặc ức chế cytochrome P450 được dự kiến không có bất kỳ ảnh hưởng có liên quan nào đối với dược động học của methylphenidat. Ngược lại, các chất đồng phân d-và l-methylphenidat không ức chế đáng kể cytochrome P450 1A2, 2C8, 2C9, 2C19, 2D6, 2E1 hoặc 3A.
Tuy nhiên, có những báo cáo chỉ ra rằng methylphenidat có thể ức chế chuyển hóa của các thuốc chống đông nhóm coumarin, các thuốc chống co giật (như phenobarbital, phenytoin, primidone) và một số thuốc chống trầm cảm (nhóm ba vòng và nhóm ức chế tái thu hồi serotonin chọn lọc). Khi bắt đầu hoặc ngừng điều trị methylphenidat, có thể cần điều chỉnh liều đang dùng của các thuốc này và đo nồng độ thuốc trong huyết tương (hoặc thời gian đông máu đối với coumarin).
Các tương tác dược lực học
Thuốc điều trị tăng huyết áp: Methylphenidat có thể làm giảm hiệu quả của các thuốc được sử dụng để điều trị tăng huyết áp.
Sử dụng với các thuốc làm tăng huyết áp: Cần thận trọng ở các bệnh nhân đang điều trị methylphenidat với bất kỳ loại thuốc nào khác có thể làm tăng huyết áp (xem mục các tình trạng tim mạch và mạch máu não ở phần Cảnh báo).
Do có thể xảy ra cơn tăng huyết áp, chống chỉ định dùng methylphenidat ở những bệnh nhân đang được điều trị (đang dùng hoặc dùng trong vòng 2 tuần trước đó) các thuốc ức chế MAO không chọn lọc, không hồi phục (xem phần Chống chỉ định).
Sử dụng với đồ uống có cồn: Đồ uống có cồn có thể làm trầm trọng thêm tác dụng bất lợi trên hệ thần kinh trung ương của các thuốc tác dụng trên tâm thần, bao gồm methylphenidat. Do đó cần khuyên bệnh nhân kiêng đồ uống có cồn trong quá trình điều trị.
Sử dụng với thuốc gây mê có halogen: Có nguy cơ tăng huyết áp đột ngột trong quá trình phẫu thuật. Nếu có kế hoạch phẫu thuật, không nên dùng methylphenidat vào ngày phẫu thuật.
Sử dụng với các chất chủ vận alpha-2 tác dụng trung ương (ví dụ clonidine): An toàn dài hạn của việc sử dụng methylphenidat kết hợp với clonidine hoặc các chất chủ vận alpha-2 tác dụng trung ương khác chưa được đánh giá một cách hệ thống.
Sử dụng với các thuốc tác dụng trên hệ dopaminergic: Cần thận trọng khi dùng methylphenidat với các thuốc tác dụng trên hệ dopaminergic, bao gồm các thuốc chống loạn thần. Bởi vì tác dụng chủ yếu của methylphenidat là làm tăng nồng độ dopamine ngoại bào, nên methylphenidat có thể liên quan đến tương tác dược lực học khi dùng chung với các thuốc chủ vận dopamine trực tiếp và gián tiếp (bao gồm DOPA và các thuốc chống trầm cảm ba vòng) hoặc với các thuốc đối kháng dopamine bao gồm các thuốc chống loạn thần.

Tác dụng ngoại ý

Bảng 2a và 2b dưới đây cho thấy tất cả các phản ứng bất lợi quan sát được trong các thử nghiệm lâm sàng ở trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn và báo cáo tự nguyện sau khi lưu hành với CONCERTA và những phản ứng đã được báo cáo với các chế phẩm methylphenidat hydroclorid khác. Nếu các tần suất phản ứng bất lợi với CONCERTA và chế phẩm methylphenidat là khác nhau, tần suất cao nhất của cả hai cơ sở dữ liệu được sử dụng.
Ước tính tần suất:
rất thường gặp: (≥ 1/10)
thường gặp: (≥ 1/100 đến < 1/10)
ít gặp: (≥ 1/1.000 đến < 1/100)
hiếm gặp: (≥ 1/10.000 đến < 1/1.000)
rất hiếm gặp: (< 1/10.000)
không biết: (không thể ước tính từ các dữ liệu hiện có).

Bảo quản

Không bảo quản ở nhiệt độ trên 30oC. Giữ trong bao bì kín.

Phân loại ATC

N06BA04 - methylphenidate

Trình bày/Đóng gói

Viên nén phóng thích kéo dài: chai 30 viên.

A