Nhà sản xuất

AbbVie

Phân loại ATC: L04AB04

Thành phần

Mỗi bơm tiêm đóng sẵn thuốc đơn liều 0,8mL: Adalimumab 40mg.
Adalimumab là một kháng thể đơn dòng tái tổ hợp ở người, được cấy vào trong các tế bào buồng trứng chuột đồng Trung Quốc.

Mô tả

Dung dịch trong, không màu.

Dược lực học

Nhóm dược lý: Chất ức chế miễn dịch, chất ức chế yếu tố hoại tử u alpha (TNF-α).
Mã ATC: L04AB04.

Cơ chế tác dụng:
Adalimumab gắn đặc hiệu vào TNF và trung hòa chức năng sinh học của TNF bằng cách khóa sự tương tác với các thụ thể bề mặt tế bào TNF p55 và p75.
Adalimumab cũng điều hòa những đáp ứng sinh học được gây ra hoặc được điều hòa bởi TNF, bao gồm sự thay đổi trong mức độ phân tử kết dính chịu trách nhiệm cho sự di chuyển của bạch cầu (ELAM-1, VCAM-1 và ICAM-1 với một nồng độ ức chế 50% IC50 là 0,1 đến 0,2 nM).

Tác dụng dược lực
Sau khi điều trị với Humira, một sự giảm nhanh chóng nồng độ chất phản ứng trong pha cấp của viêm (CRP và tốc độ lắng hồng cầu ESR) và cytokine huyết thanh (IL-6) được quan sát thấy, so với mức cơ bản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Nồng độ huyết thanh của matrix metalloproteinases (MMP-1 và MMP-3) tạo sự tái cấu trúc mô, chịu trách nhiệm cho sự hủy sụn cũng giảm đi sau khi dùng Humira. Bệnh nhân điều trị với Humira thường có sự cải thiện về những dấu hiệu huyết học của viêm mạn tính.
Một sự giảm nhanh nồng độ CRP cũng được quan sát thấy ở bệnh nhân viêm đa khớp tự phát thiếu niên, bệnh Crohn, viêm loét đại tràng và viêm tuyến mồ hôi mưng mủ sau khi điều trị với Humira. Ở bệnh nhân Crohn quan sát thấy được sự giảm số lượng những tế bào biểu hiện những dấu chứng viêm ở đại tràng, bao gồm một sự giảm có ý nghĩa sự biểu hiện TNFα.

Hiệu quả và an toàn lâm sàng

Viêm khớp dạng thấp
Humira được đánh giá ở hơn 3000 bệnh nhân trong tất cả những thử nghiệm lâm sàng về bệnh viêm khớp dạng thấp. Hiệu quả và an toàn được đánh giá trong 5 thử nghiệm lâm sàng đối chứng, ngẫu nhiên, mù đôi và một số bệnh nhân được điều trị cho đến 120 tháng.
Nghiên cứu viêm khớp dạng thấp I đánh giá 271 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động thể trung bình đến nặng, ít nhất 18 tuổi, đã thất bại với ít nhất một thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh và hiệu quả điều trị không đủ với liều methotrexate từ 12,5 đến 25 mg (10 mg nếu không dung nạp với methotrexate) mỗi tuần và liều methotrexate của những bệnh nhân này giữ nguyên từ 10 đến 25 mg mỗi tuần. Liều 20, 40, 80 mg Humira hoặc giả dược được dùng mỗi 2 tuần trong vòng 24 tuần. Nghiên cứu viêm khớp dạng thấp II đánh giá 544 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động thể trung bình đến nặng, ít nhất 18 tuổi, đã thất bại với ít nhất một thuốc chống thấp khớp thay đổi diễn tiến bệnh. Liều 20 hoặc 40 mg Humira được dùng tiêm dưới da mỗi 2 tuần với giả dược dùng xen kẽ hoặc mỗi tuần trong vòng 26 tuần, giả dược được dùng mỗi tuần với cùng khoảng thời gian tương tự. Không một thuốc chống thấp khớp thay đổi diễn tiến bệnh nào khác được cho phép.
Nghiên cứu viêm khớp dạng thấp III đánh giá 619 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động thể trung bình đến nặng, ít nhất 18 tuổi, đáp ứng không hiệu quả với methotrexate ở liều từ 12,5 đến 25 mg hoặc không dung nạp với liều 10 mg methotrexate mỗi tuần. Có 3 nhóm trong nghiên cứu này. Nhóm đầu tiên tiêm giả dược mỗi tuần trong 52 tuần. Nhóm thứ 2 dùng 20 mg Humira mỗi tuần trong vòng 52 tuần. Nhóm thứ ba dùng 40 mg Humira mỗi 2 tuần, tiêm giả dược xen kẽ. Khi kết thúc 52 tuần đầu tiên, 457 bệnh nhân tham gia vào pha nhãn mở mở rộng trong đó 40 mg Humira/MTX được sử dụng mỗi 2 tuần trong suốt 10 năm.
Nghiên cứu viêm khớp dạng thấp IV chủ yếu đánh giá độ an toàn với 636 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động thể trung bình đến nặng, ít nhất 18 tuổi. Bệnh nhân hoặc chưa được điều trị với thuốc chống thấp khớp thay đổi diễn tiến bệnh hoặc được tiếp tục liệu trình thuốc chống viêm khớp hiện có miễn là liệu trình đó ổn định trong vòng ít nhất 28 ngày. Liệu trình này bao gồm methotrexate, leflunomide, hydroxychloroquine, sulfasalazine và/hoặc muối vàng. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhóm dùng 40 mg Humira hoặc giả dược mỗi 2 tuần trong vòng 24 tuần.
Nghiên cứu viêm khớp dạng thấp V đánh giá 799 bệnh nhân chưa dùng methotrexate, trưởng thành có viêm khớp dạng thấp hoạt động mức độ trung bình đến nặng (thời gian bệnh trung bình ít hơn 9 tháng). Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của Humira 40 mg mỗi 2 tuần/kết hợp với methotrexate, Humira 40 mg mỗi 2 tuần đơn trị và methotrexate đơn trị trong việc giảm dấu hiệu và triệu chứng và tốc độ diễn tiến của việc hủy khớp trong viêm khớp dạng thấp trong vòng 104 tuần. Khi kết thúc 104 tuần đầu tiên, 497 bệnh nhân tham gia vào pha nhãn mở mở rộng trong đó 40 mg Humira được sử dụng mỗi 2 tuần trong suốt 10 năm.
Nghiên cứu viêm khớp dạng thấp VI và VII mỗi nghiên cứu đánh giá 60 bệnh nhân có viêm khớp dạng thấp tiến triển mức độ trung bình đến nặng, ít nhất 18 tuổi. Bệnh nhân được tuyển có thể đang sử dụng Humira 40 mg/0,8 ml và đánh giá mức độ đau trung bình tại chỗ tiêm là ít nhất 3cm (từ 0 – 10 cm VAS) hoặc chưa sử dụng chế phẩm sinh học và đang bắt đầu với Humira 40 mg/0,8 ml. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để dùng liều đơn Humira 40 mg/0,8 ml hoặc Humira 40 mg/0,4 ml, theo sau bởi liều tiêm đơn của nhóm đối kháng trong lần tiêm kế tiếp.
Kết cục lâm sàng chính yếu trong nghiên cứu RA I, II và III và kết cục lâm sàng thứ yếu trong nghiên cứu RA IV là phần trăm bệnh nhân đạt được mức đáp ứng ACR 20 ở tuần 24 hoặc 26. Kết cục lâm sàng chính yếu trong nghiên cứu RA V là phần trăm bệnh nhân đạt được mức đáp ứng ACR 50 ở Tuần 52. Nghiên cứu RA III và V có thêm một kết cục lâm sàng chính yếu ở tuần 52, làm chậm tiến triển bệnh (được xác định dựa trên kết quả X-quang). Nghiên cứu RA III cũng có một kết cục lâm sàng chính yếu là thay đổi trong chất lượng cuộc sống.
Đáp ứng ACR (đáp ứng của người bệnh viêm khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn của Hội Thấp khớp Hoa Kỳ):
Phần trăm của bệnh nhân được điều trị với Humira đạt được đáp ứng ACR 20, 50, 70 là nhất quán qua các nghiên cứu RA I, II, III. Kết quả của việc dùng 40 mg mỗi 2 tuần được tổng kết trong Bảng 1.
- xem Bảng 1.

Trong nghiên cứu RA từ I-IV, tất cả những thành phần riêng lẻ của tiêu chuẩn đáp ứng ACR (số lượng khớp đau và sưng, bác sĩ và bệnh nhân đánh giá hoạt động bệnh và đau, chỉ số tàn tật (HAQ), và chỉ số CRP (mg/dl) cải thiện trong vòng 24 hay 26 tuần so với giả dược. Trong nghiên cứu RA III, những cải thiện này được duy trì trong suốt 52 tuần.
Trong nghiên cứu mở rộng nhãn mở của nghiên cứu RA III, đa số bệnh nhân đã có đáp ứng ACR sẽ duy trì đáp ứng này khi theo dõi trong vòng 10 năm. Với 207 bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên điều trị với Humira mỗi 2 tuần, 114 bệnh nhân tiếp tục với Humira 40mg mỗi 2 tuần trong vòng 5 năm. Trong số này, 86 bệnh nhân (75,4%) có đáp ứng ACR 20, 72 bệnh nhân (63,2%) có đáp ứng ACR 50, và 41 bệnh nhân (36%) có đáp ứng ACR 70. Với 207 bệnh nhân, 81 người tiếp tục điều trị với 40mg mỗi 2 tuần trong vòng 10 năm. Trong số đó, 64 bệnh nhân (79,0%) có đáp ứng ACR 20, 56 bệnh nhân (69,1%) có đáp ứng ACR 50, và 43 bệnh nhân (53,1%) có đáp ứng ACR 70.
Trong nghiên cứu RA IV, đáp ứng ACR 20 của bệnh nhân điều trị với Humira cộng với chăm sóc tiêu chuẩn thì tốt hơn một cách có ý nghĩa thông kê so với bệnh nhân điều trị bằng giả dược kết hợp chăm sóc tiêu chuẩn (p < 0,001).
Trong nghiên cứu RA I-IV, bệnh nhân điều trị với Humira đạt được mức đáp ứng ACR 20 và 50 có ý nghĩa thống kê so với giả dược từ một đến 2 tuần sau khi bắt đầu điều trị.
Trong nghiên cứu RA V với bệnh nhân viêm khớp dạng thấp giai đoạn sớm, chưa được điều trị với methotrexate, kết hợp điều trị giữa Humira và methotrexate dẫn đến việc đáp ứng ACR nhanh hơn và mạnh hơn so với methotrexate đơn trị và Humira đơn trị ở tuần 52 và đáp ứng được kéo dài tới tuần 104.
- xem Bảng 2.

Trong nghiên cứu mở rộng nhãn mở của nghiên cứu RA V, tỉ lệ đáp ứng ACR được duy trì khi theo dõi trong vòng 10 năm. Với 542 bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên điều trị với Humira mỗi 2 tuần, 170 bệnh nhân tiếp tục với Humira 40 mg mỗi 2 tuần trong vòng 10 năm. Trong số này, 154 bệnh nhân (90,6%) có đáp ứng ACR 20, 127 bệnh nhân (74,7%) có đáp ứng ACR 50, và 102 bệnh nhân (60,0%) có đáp ứng ACR 70.
Ở Tuần 52, 42,9% bệnh nhân dùng kết hợp Humira/methotrexate đạt được sự thuyên giảm lâm sàng (DAS28 < 2,6) so với 20,6% ở bệnh nhân dùng methotrexate đơn trị liệu và 23,4% bệnh nhân dùng Humira đơn trị liệu. Kết hợp Humira/methotrexate thì vượt trội về mặt lâm sàng và thống kê so với methotrexate đơn trị (p< 0,001) và Humira đơn trị (p<0,001) trong việc đạt được sự thuyên giảm về bệnh ở những người được chẩn đoán viêm khớp dạng thấp thể trung bình đến nặng. Sự đáp ứng trong cả hai nhánh đơn trị là tương tự nhau (p=0,447).
Trong nghiên cứu nhãn mở mở rộng với 342 bệnh nhân được lấy ngẫu nhiên để điều trị ban đầu bằng Humira đơn độc hoặc kết hợp Humira/methotrexate, 171 bệnh nhân hoàn thành 10 năm điều trị với Humira. Trong đó, 109 đối tượng (63,7%) đã được báo cáo là đã thuyên giảm sau 10 năm.
Đáp ứng hình ảnh học
Trong nghiên cứu RA III, khi bệnh nhân được điều trị với Humira có thời gian viêm khớp dạng thấp trung bình xấp xỉ 11 năm, sự phá hủy cấu trúc khớp được đánh giá về mặt hình ảnh học và biểu thị ra thành sự thay đổi trong thang điểm TSS cải tiến và các thành phần của nó, thang điểm bào mòn và thang điểm hẹp khoảng cách giữa hai đầu xương. Bệnh nhân điều trị bằng Humira/methotrexate ít có tiến triển về hình ảnh học một cách có ý nghĩa hơn so với bệnh nhân methotrexate đơn trị ở 6 tháng và 12 tháng (xem Bảng 3).
Trong nghiên cứu nhãn mở mở rộng của nghiên cứu RA III, sự giảm trong tốc độ tiến triển của việc phá hủy cấu trúc được duy trì trong 8 và 10 năm trong một nhóm bệnh nhân. Ở mốc 8 năm, 81 trong số 207 bệnh nhân được điều trị ban đầu với 40 mg Humira mỗi hai tuần được đánh giá về mặt hình ảnh học. Trong số đó, 48 bệnh nhân không thể hiện sự tiến triển trong việc phá hủy cấu trúc, được xác định bởi sự thay đổi điểm số mTSS so với mức ban đầu không quá 0,5. Ở mốc 10 năm, 79 trong số 207 bệnh nhân được điều trị ban đầu với 40 mg Humira mỗi 2 tuần được đánh giá về mặt hình ảnh. Trong số đó, 40 bệnh nhân không thể hiện sự tiến triển trong việc phá hủy cấu trúc, được xác định bằng sự thay đổi điểm số TSS cải tiến so với mức ban đầu không quá 0,5.
- xem Bảng 3.

Trong nghiên cứu RA V, tổn thương cấu trúc khớp đã được đánh giá bằng hình ảnh chụp X quang và được thể hiện bằng sự thay đổi trong Tổng Điểm Sharp cải tiến.
- xem Bảng 4.

Tiếp theo 52 tuần và 104 tuần điều trị, tỷ lệ phần trăm bệnh nhân không có sự tiến triển (thay đổi tính từ lúc ban đầu của Tổng Điểm Sharp cải tiến ≤0,5) của liệu pháp kết hợp Humira/methotrexate (lần lượt là 63,8% và 61,2%) cao hơn có ý nghĩa so với đơn liệu pháp methotrexate (lần lượt là 37,4% và 33,5%, p < 0,001) và đơn liệu pháp Humira (lần lượt là 50,7%, p < 0,002 và 44,5%, p < 0,001).
Trong nghiên cứu nhãn mở mở rộng của nghiên cứu RA V, mức thay đổi trung bình tính từ lúc ban đầu đến 10 năm của Tổng Điểm Sharp cải tiến là 10,8; 9,2 và 3,9 lần lượt ở bệnh nhân điều trị ban đầu ngẫu nghiên bằng methotrexate đơn độc, Humira đơn trị liệu và kết hợp trị liệu bằng Humira/methotrexate. Các tỷ lệ tương ứng của bệnh nhân không có tiến triển X quang phổi lần lượt là 31,3%, 23,7% và 36,7%.
Chất lượng cuộc sống và chức năng cơ thể
Chất lượng cuộc sống và chức năng cơ thể có liên quan đến sức khỏe đã được đánh giá bằng cách dùng chỉ số tàn tật trong Bảng Câu Hỏi Đánh Giá Sức Khỏe (HAQ) trong 4 thử nghiệm ban đầu được đối chứng tốt và đầy đủ, đó là một chỉ tiêu lâm sàng chính và xác định trước ở Tuần 52 trong nghiên cứu RA III. Tất cả các liều dùng/lịch trình dùng thuốc của Humira trong cả 4 nghiên cứu đều cho thấy một sự cải thiện tốt hơn có ý nghĩa thống kê về chỉ số tàn tật trong HAQ kể từ lúc ban đầu đến Tháng 6 so với giả dược và kết quả tương tự cũng được nhận thấy ở Tuần 52 trong nghiên cứu RA III. Kết quả từ Cuộc Khảo Sát Sức Khỏe Hình Thức Ngắn Gọn (SF 36) cho tất cả các liều dùng/lịch trình dùng thuốc của Humira trong cả 4 nghiên cứu cũng hỗ trợ cho những phát hiện này, bằng những điểm số tóm tắt về sức khỏe thể chất (PCS) có ý nghĩa thống kê, cũng như các điểm số về phạm vi sức sống và đau có ý nghĩa thống kê cho liều dùng 40 mg cách tuần một lần. Sự mệt mỏi giảm đi có ý nghĩa thống kê mà được đo bằng sự đánh giá chức năng theo điểm số về liệu pháp điều trị bệnh mạn tính (FACIT) cũng được nhận thấy trong cả 3 nghiên cứu đã được đánh giá (nghiên cứu RA I, II, III).
Trong nghiên cứu RA III, hầu hết các bệnh nhân đã có sự cải thiện về chức năng thể chất và được tiếp tục điều trị đã duy trì sự cải thiện qua tuần thứ 520 (120 tháng) của nghiên cứu nhãn mở. Sự cải thiện chất lượng cuộc sống được đo lường đến tuần thứ 156 (36 tháng) và sự cải thiện được duy trì suốt thời gian đó.
Trong nghiên cứu RA V, sự cải thiện về chỉ số tàn tật trong HAQ và thành phần về thể chất của SF 36 đã cho thấy một sự cải thiện tốt hơn (p < 0,001) cho liệu pháp kết hợp Humira/methotrexate so với đơn liệu pháp methotrexate và đơn liệu pháp Humira ở Tuần 52, và đã được duy trì đến Tuần 104. Trong 250 đối tượng hoàn thành nghiên cứu nhãn mở mở rộng, sự cải thiện về chức năng thể chất được duy trì trong suốt 10 năm điều trị.
Viêm khớp tự phát ở thanh thiếu niên (JIA)
Viêm đa khớp tự phát ở thanh thiếu niên (pJIA)
An toàn và hiệu quả của Humira được đánh giá qua 2 nghiên cứu (pJIA I và II) ở những trẻ em bị viêm đa khớp dạng hoạt động hoặc viêm đa khớp tự phát đang diễn tiến ở thanh thiếu niên, mà có nhiều kiểu khởi phát JIA (thường xuyên nhất là viêm đa khớp có hoặc không có kết hợp bệnh thấp khớp và viêm thiểu khớp kéo dài).
pJIA I
An toàn và hiệu quả của Humira được đánh giá qua một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, nhóm song song ở 171 trẻ em (4-17 tuổi) bị viêm đa khớp tự phát ở thanh thiếu niên. Trong hướng dẫn nhãn mở ở giai đoạn (OL LI), bệnh nhân đã được phân tầng theo 2 nhóm, được điều trị có hoặc không sử dụng MTX (methotrexate). Những bệnh nhân trong nhóm không sử dụng MTX hoặc là đã không sử dụng hoặc là đã ngưng MTX ít nhất 2 tuần trước khi cho sử dụng thuốc nghiên cứu. Những bệnh nhân vẫn duy trì sử dụng liều dùng ổn định NSAIDs và hoặc prednisolon (≤ 0,2 mg/kg/ngày hoặc tối đa 10 mg/ngày). Trong giai đoạn OL LI, tất cả bệnh nhân sử dụng liều 24 mg/m2 cho đến liều tối đa là 40 mg Humira cách tuần một lần trong 16 tuần. Sự phân bổ bệnh nhân theo tuổi và liều sử dụng tối thiểu, trung bình và tối đa trong giai đoạn OL LI thì được trình bày theo Bảng 5.
- xem Bảng 5.

Những bệnh nhân biểu hiện đáp ứng ACR 30 về nhi khoa ở Tuần 16 thì thích hợp để được phân ngẫu nhiên vào pha mù đôi (DB) và đã được cho sử dụng hoặc là Humira 24 mg/m2 đến liều tối đa 40 mg, hoặc giả dược cách tuần một lần cho đến thêm 32 tuần nữa hoặc cho đến khi bệnh bùng phát. Tiêu chuẩn của sự bùng phát bệnh được định nghĩa là một tình trạng xấu đi ≥ 30% tính từ thời điểm ban đầu đối với ≥ 3 trong 6 tiêu chuẩn điểm ACR về nhi khoa,  ≥ 2 khớp động, và sự cải thiện > 30% ở không nhiều hơn 1 trong 6 tiêu chuẩn. Sau 32 tuần hoặc lúc bệnh bùng phát, các bệnh nhân thích hợp được thu nhận vào giai đoạn mở rộng nhãn mở.
- xem Bảng 6.

Trong số những bệnh nhân mà có đáp ứng ở Tuần 16 (n=144), đáp ứng ACR 30/50/70/90 về nhi khoa được duy trì cho tới 6 năm trong giai đoạn OLE đối với bệnh nhân sử dụng Humira trong suốt nghiên cứu. Trong tất cả 19 bệnh nhân, có 11 bệnh nhân trong nhóm 4 đến 12 tuổi ở thời điểm ban đầu và 8 bệnh nhân trong nhóm 13 đến 17 tuổi ở thời điểm ban đầu đã được điều trị trong 6 năm hoặc lâu hơn.
Đáp ứng tổng thể nhìn chung là tốt hơn và có một vài bệnh nhân đã phát triển thêm kháng thể khi điều trị bằng liệu pháp kết hợp Humira và MTX so với chỉ sử dụng Humira đơn độc. Sau khi xem xét những kết quả này, Humira được khuyến cáo nên sử dụng kết hợp với MTX và dùng đơn trị liệu khi bệnh nhân không thích hợp để sử dụng MTX (xem mục Liều lượng và cách dùng).
pJIA II
An toàn và hiệu quả của Humira được đánh giá trong một nghiên cứu nhãn mở, đa trung tâm ở 32 trẻ em (2 - < 4 tuổi hoặc ≥ 4 tuổi và có cân nặng < 15 kg) bị viêm đa khớp tự phát dạng hoạt động ở thanh thiếu niên mức độ vừa đến nặng. Các bệnh nhân đã nhận được liều Humira 24 mg/m2 diện tích bề mặt cơ thể cho đến liều tối đa là 20 mg mỗi 2 tuần, là liều đơn tiêm dưới da trong thời gian ít nhất 24 tuần. Trong suốt nghiên cứu, hầu hết bệnh nhân đã dùng MTX đồng thời, cùng với việc dùng corticosteroid hoặc NSAIDs thì ít được báo cáo hơn.
Ở Tuần 12 và Tuần 24, đáp ứng ACR 30 về nhi khoa lần lượt là 93,5% và 90,0%, bằng cách tiếp cận dữ liệu đã được quan sát. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu có đáp ứng ACR 50/70/90 về nhi khoa ở Tuần 12 và Tuần 24 lần lượt là 90,3%/61,3%/38,7% và 83,3%/73,3%/36,7%. Trong số những đối tượng đã đáp ứng (ACR 30 về nhi khoa) ở Tuần 24 (n=27 trong số 30 bệnh nhân), đáp ứng ACR 30 về nhi khoa được duy trì cho đến 60 tuần trong giai đoạn OLE ở những bệnh nhân mà sử dụng Humira trong suốt khoảng thời gian này. Một cách tổng thể, có 20 đối tượng nghiên cứu đã được điều trị trong 60 tuần hoặc lâu hơn.
Viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận
An toàn và hiệu quả của Humira được đánh giá trong một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi ở 46 bệnh nhân nhi (6 đến 17 tuổi) bị viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận mức độ vừa. Các bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để nhận liều Humira 24 mg/m2 diện tích bề mặt cơ thể (BSA) cho đến liều tối đa 40 mg, hoặc giả dược mỗi 2 tuần trong 12 tuần. Giai đoạn mù đôi được theo sau giai đoạn nhãn mở (OL), trong giai đoạn này bệnh nhân đã nhận liều 24 mg/m2 BSA của Humira cho đến liều tối đa 40 mg mỗi 2 tuần, tiêm dưới da thêm 192 tuần nữa. Kết cục lâm sàng chính yếu là thay đổi phần trăm tính từ lúc ban đầu đến Tuần 12 ở số các khớp động bị viêm (sưng không phải do dị dạng hoặc mất cử động khớp cộng với đau khớp, và/hoặc khớp nhạy cảm), có phần trăm trung bình đã giảm đi là -62,6% (phần trăm trung bình thay đổi -88,9%) ở những bệnh nhân thuộc nhóm sử dụng Humira so với -11% (phần trăm trung bình thay đổi -50,0%) ở những bệnh nhân thuộc nhóm sử dụng giả dược. Sự cải thiện ở số các khớp động bị viêm được duy trì trong suốt giai đoạn OL đến Tuần 52 của nghiên cứu. Mặc dù không có ý nghĩa thống kê đáng kể nhưng phần lớn bệnh nhân đã thể hiện sự cải thiện lâm sàng trong các kết cục lâm sàng phụ như số lượng vị trí viêm điểm bám tận, tổng số khớp nhạy cảm (TJC), tổng số khớp bị sưng (SJC), đáp ứng ACR 50 về nhi khoa, và đáp ứng ACR 70 về nhi khoa.
Viêm khớp cột sống thể trục
Viêm cột sống dính khớp (AS)
Liều Humira 40 mg mỗi 2 tuần được đánh giá ở 393 bệnh nhân trong 2 nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi 24 tuần, có đối chứng với giả dược ở những bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp hoạt động (điểm ban đầu trung bình của độ hoạt động bệnh [Chỉ Số Độ Hoạt Động Của Bệnh Viêm Cột Sống Dính Khớp (BASDAI)] là 6,3 ở cả 2 nhóm), mà thiếu đáp ứng với liệu pháp điều trị thường quy. 79 (20,1%) bệnh nhân được điều trị đồng thời bằng thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh và 37 (9,4%) bệnh nhân được điều trị đồng thời bằng glucocorticoid. Giai đoạn làm mù được theo sau bởi giai đoạn nhãn mở, trong suốt giai đoạn này các bệnh nhân đã sử dụng liều Humira 40 mg cách tuần một lần, tiêm dưới da cho đến thêm 28 tuần nữa. Những đối tượng (n=215, 54,7%) mà không đạt ASAS 20 ở Tuần 12, hoặc 16 hoặc 20 đã được cho ngừng adalimumab 40 mg nhãn mở tiêm dưới da mỗi cách tuần một lần, và được điều trị về sau như những bệnh nhân không đáp ứng trong phân tích thống kê mù đôi.
Trong nghiên cứu lớn hơn AS I với 315 bệnh nhân, kết quả cho thấy một sự cải thiện đáng kể có ý nghĩa thống kê về biểu hiện và triệu chứng của bệnh viêm cột sống dính khớp ở những bệnh nhân được điều trị bằng Humira so với giả dược.  Đáp ứng có ý nghĩa được quan sát thấy lần đầu tiên ở Tuần 2 và được duy trì trong suốt 24 tuần.
- xem Bảng 7.

Những bệnh nhân được điều trị bằng Humira có mức độ cải thiện tốt hơn đáng kể ở Tuần 12 và được duy trì cho đến Tuần 24 theo SF36 và Bảng Câu Hỏi Chất Lượng Cuộc Sống Bệnh Viêm Cột Sống Dính Khớp (ASQoL).
Chiều hướng tương tự (không phải tất cả đều có ý nghĩa thống kê đáng kể) đã được nhận thấy ở nghiên cứu AS II nhỏ hơn, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược ở 82 bệnh nhân trưởng thành bị viêm cột sống dính khớp hoạt động.
Viêm khớp cột sống thể trục không có bằng chứng trên hình ảnh chụp X quang về AS
Liều Humira 40 mg mỗi cách tuần một lần được đánh giá ở 185 bệnh nhân trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi 12 tuần, có đối chứng với giả dược ở những bệnh nhân bị viêm khớp cột sống thể trục hoạt động không có bằng chứng trên hình ảnh chụp X quang (điểm ban đầu trung bình của độ hoạt động bệnh [Chỉ Số Độ Hoạt Động Của Bệnh Viêm Cột Sống Dính Khớp (BASDAI)] là 6,4 cho những bệnh nhân được điều trị bằng Humira và 6,5 cho những bệnh nhân sử dụng giả dược), mà đã thiếu đáp ứng hoặc không dung nạp với ≥1 NSAIDs, hoặc chống chỉ định với NSAIDs.
33 bệnh nhân (18%) được điều trị đồng thời bằng thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh, và 146 bệnh nhân (79%) được điều trị với NSAIDs ở thời điểm ban đầu. Giai đoạn mù đôi được theo sau bởi giai đoạn nhãn mở, trong suốt giai đoạn này các bệnh nhân đã nhận liều Humira 40 mg mỗi 2 tuần, tiêm dưới da cho thêm 144 tuần nữa. Kết quả ở Tuần 12 cho thấy một sự cải thiện đáng kể có ý nghĩa thống kê về biểu hiện và triệu chứng của bệnh viêm khớp cột sống thể trục hoạt động không có bằng chứng trên hình ảnh chụp X quang ở những bệnh nhân được điều trị bằng Humira so với giả dược.
- xem Bảng 8.

Bằng sự mở rộng nhãn mở, mức độ cải thiện về những dấu hiệu và triệu chứng bệnh đã được duy trì cùng với liệu pháp Humira cho đến Tuần 156.
Sự ức chế viêm
Sự cải thiện có ý nghĩa của những biểu hiện viêm theo như đã đo được bằng hs-CRP và MRI ở những khớp đốt sống cùng và cột sống đã được duy trì ở những bệnh nhân được điều trị bằng Humira lần lượt đến Tuần 156 và Tuần 104.
Chất lượng cuộc sống và chức năng về thể chất
Chất lượng cuộc sống và chức năng về thể chất liên quan đến sức khỏe được đánh giá bằng cách dùng bảng câu hỏi HAQ-S và SF-36. Humira đã cho thấy được một sự cải thiện tốt hơn đáng kể có ý nghĩa thống kê theo tổng điểm HAQ-S và Điểm Sức Khỏe Thể Chất SF-36 (PCS) kể từ thời điểm ban đầu đến Tuần 12 so với giả dược. Sự cải thiện chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe và chức năng thể chất đã được duy trì trong suốt sự mở rộng nhãn mở cho đến Tuần 156.
Viêm khớp vảy nến
Liều Humira 40 mg mỗi 2 tuần, được nghiên cứu ở những bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến hoạt động mức độ vừa đến nặng trong hai nghiên cứu PsA I và II có đối chứng với giả dược. Nghiên cứu PsA I kéo dài trong khoảng thời gian 24 tuần, điều trị cho 313 bệnh nhân trưởng thành đáp ứng kém với liệu pháp dùng thuốc kháng viêm không-steroid và trong số đó, xấp xỉ 50% đã sử dụng methotrexate. Nghiên cứu PsA II kéo dài trong khoảng thời gian 12 tuần, điều trị cho 100 bệnh nhân đáp ứng kém với liệu pháp DMARD. Sau khi các nghiên cứu hoàn tất, 383 bệnh nhân được thu nhận vào nghiên cứu mở rộng nhãn mở, trong nghiên cứu này liều 40 mg Humira đã được sử dụng mỗi cách tuần một lần.
Thiếu bằng chứng cho tính hiệu quả của Humira ở những bệnh nhân bị bệnh khớp vảy nến tương tự viêm cột sống dính khớp bởi vì số lượng bệnh nhân nghiên cứu nhỏ.
- xem Bảng 9.

Đáp ứng ACR trong nghiên cứu PsA I giữa liệu pháp có và không sử dụng đồng thời với trị liệu methotrexate là tương tự nhau.
Đáp ứng ACR được duy trì trong một nghiên cứu mở rộng nhãn mở cho đến 136 tuần.
Những thay đổi về hình ảnh X-quang đã được đánh giá trong những nghiên cứu viêm khớp vảy nến. Hình ảnh chụp X quang của bàn tay, cổ tay và bàn chân được quan sát ở thời điểm ban đầu và Tuần 24 trong suốt giai đoạn mù đôi khi mà bệnh nhân sử dụng Humira hoặc giả dược, và ở Tuần 48 khi mà tất cả bệnh nhân đã sử dụng Humira nhãn mở. Tổng Điểm Sharp cải tiến (mTSS), bao gồm các khớp ngón chân, ngón tay (tức là không được trùng với TSS sử dụng cho viêm khớp dạng thấp), được sử dụng.
Việc điều trị bằng Humira đã làm giảm tỉ lệ tiến triển của tổn thương khớp ngoại biên so với việc điều trị bằng giả dược như đã đo được bằng sự thay đổi kể từ thời điểm ban đầu là mTSS (trung bình ± SD) 0,8 ± 2,5 ở nhóm sử dụng giả dược (tại Tuần 24) so với 0,0 ± 1,9; (p < 0,001) ở nhóm sử dụng Humira (tại Tuần 48).
Trong số những đối tượng đã được điều trị bằng Humira mà không có tiến triển bệnh trên hình ảnh X quang tính từ lúc ban đầu đến Tuần 48 (n=102), 84% tiếp tục cho thấy không có tiến triển bệnh cho đến Tuần 144 của quá trình điều trị.
Những bệnh nhân được điều trị bằng Humira đã cho thấy rõ sự cải thiện đáng kể có ý nghĩa thống kê về chức năng cơ thể theo như được đánh giá trong HAQ và Cuộc Khảo Sát Sức Khỏe Theo Hình Thức Ngắn Gọn (SF 36) so với giả dược ở Tuần 24. Chức năng cơ thể được đã được cải thiện và duy trì trong suốt giai đoạn mở rộng nhãn mở lên đến 136 tuần.
Bệnh vảy nến
An toàn và hiệu quả của Humira đã được nghiên cứu ở những bệnh nhân trưởng thành bị vảy nến thể mảng mạn tính (≥ 10% sự tham gia của BSA và Chỉ Số Đo Mức Độ Trầm Trọng Và Vùng Vảy Nến (PASI) ≥ 12 hoặc ≥ 10), mà là đối tượng đã được chọn cho liệu pháp điều trị toàn thân hoặc liệu pháp quang trong những nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi. 73% bệnh nhân được thu nhận vào nghiên cứu vảy nến I và II đã nhận được liệu pháp điều trị toàn thân trước đó hoặc liệu pháp quang trước đó. Tính an toàn và hiệu quả của Humira cũng được nghiên cứu ở những bệnh nhân trưởng thành bị bệnh vảy nến thể mảng mạn tính mức độ vừa đến nặng kèm theo vảy nến ở tay và/hoặc ở chân, mà là đối tượng đã được chọn cho liệu pháp điều trị toàn thân trong một nghiên cứu ngẫu nhiên mù đôi (Nghiên cứu Vảy nến III).
Nghiên cứu vảy nến I (REVEAL) đã đánh giá trên 1212 bệnh nhân trong ba giai đoạn điều trị. Ở giai đoạn A, các bệnh nhân được điều trị bằng giả dược hoặc Humira với liều khởi đầu 80 mg và kế tiếp là bắt đầu liều 40 mg một tuần sau liều khởi đầu, mỗi 2 tuần. Sau 16 tuần điều trị, những bệnh nhân mà có đáp ứng PASI ít nhất là 75 (Mức độ cải thiện điểm PASI ít nhất là 75% tùy theo thời điểm ban đầu), bắt đầu được đưa vào giai đoạn B và nhận được 40 mg Humira nhãn mở mỗi 2 tuần. Những bệnh nhân mà đã duy trì được đáp ứng PASI ≥ 75 ở Tuần 33 và đã được phân ngẫu nhiên vào liệu pháp điều trị tích cực ở giai đoạn A ban đầu, được phân ngẫu nhiên lại trong giai đoạn C để nhận 40 mg Humira mỗi cách tuần một lần hoặc giả dược trong thêm 19 tuần nữa. Qua tất cả các nhóm điều trị, điểm PASI ban đầu trung bình là 18,9 và điểm Đánh Giá Toàn Diện Về Thể Chất ban đầu (PGA) biến thiên từ “vừa” (53% đối tượng nghiên cứu) đến “nặng” (41%) đến “rất nặng” (6%).
Nghiên cứu vảy nến II (CHAMPION) đã so sánh tính hiệu quả và an toàn của Humira so với methotrexate và giả dược ở 271 bệnh nhân. Bệnh nhân đã được nhận hoặc là giả dược, hoặc MTX, liều khởi đầu là 7,5 mg và liều dùng sau đó tăng lên cho tới liều tối đa là 25 mg ở Tuần 12,  hoặc Humira, liều khởi đầu là 80 mg rồi kế tiếp là liều 40 mg mỗi 2 tuần (bắt đầu vào một tuần sau khi dùng liều khởi đầu) trong 16 tuần. Không có dữ liệu so sánh giữa Humira và MTX ở thời gian quá 16 tuần của liệu pháp điều trị. Những bệnh nhân sử dụng MTX mà có một đáp ứng PASI ≥ 50 ở Tuần 8 và/hoặc 12 thì không tăng liều thêm nữa. Qua tất cả các nhóm điều trị, điểm PASI ban đầu trung bình là 19,7 và điểm PGA ban đầu biến thiên từ “nhẹ” (<1%) đến “vừa” (48%) đến “nặng” (46%) đến “rất nặng” (6%).
Những bệnh nhân đã tham gia vào giai đoạn 2 và giai đoạn 3 của nghiên cứu vảy nến thì thích hợp để thu nhận vào thử nghiệm mở rộng nhãn mở, trong đó Humira được sử dụng thêm ít nhất 108 tuần nữa.
Trong nghiên cứu vảy nến I và II, kết cục lâm sàng chính là tỉ lệ bệnh nhân có đáp ứng PASI 75 so với ban đầu ở Tuần 16.
- xem Bảng 10 và 11.

Trong nghiên cứu vảy nến I, 28% bệnh nhân mà đã đáp ứng PASI 75 và được phân ngẫu nhiên lại để sử dụng giả dược ở Tuần 33 so với 5% bệnh nhân tiếp tục sử dụng Humira, p < 0,001, đã trải qua “mất đáp ứng đầy đủ” (điểm PASI sau Tuần 33 và trước hoặc trong Tuần 52 mà thu được từ đáp ứng <PASI 50 liên quan đến thời điểm ban đầu với điểm PASI tăng thêm tối thiểu 6 điểm liên quan đến Tuần 33). Trong số những bệnh nhân đã mất đáp ứng đầy đủ sau khi được phân ngẫu nhiên để sử dụng giả dược mà sau đó được thu nhận vào thử nghiệm mở rộng nhãn mở, lần lượt có 38% (25/66) và 55% (36/66) thu lại được đáp ứng PASI 75 sau 12 và 24 tuần điều trị.
Tổng cộng có 233 bệnh nhân có đáp ứng PASI 75 ở Tuần 16 và Tuần 33 tiếp tục được điều trị bằng Humira trong 52 tuần ở Nghiên cứu Vảy nến I, và Humira được tiếp tục sử dụng trong thử nghiệm mở rộng nhãn mở.  Tỉ lệ đáp ứng PASI 75 và PGA toàn bộ hoặc tối thiểu ở những bệnh nhân này lần lượt là 74,7% và 59,0%, sau 108 tuần tiếp theo của liệu pháp điều trị nhãn mở (tổng cộng là 160 tuần). Trong một phân tích cho tất cả những bệnh nhân đã được rút khỏi nghiên cứu vì những biến cố bất lợi hoặc điều trị thiếu hiệu quả, hoặc những bệnh nhân đã được tăng liều mà vẫn được xem xét là không có đáp ứng, thì tỉ lệ đáp ứng PASI 75 và PGA toàn bộ hoặc tối thiểu ở những bệnh nhân này lần lượt là 69,6% và 55,7% sau liệu pháp điều trị nhãn mở kéo dài thêm 108 tuần nữa (tổng cộng là 160 tuần).
Tổng số 347 bệnh nhân có đáp ứng ổn định đã tham gia vào một nghiên cứu mở rộng nhãn mở đánh giá về việc rút khỏi nghiên cứu và điều trị lại. Trong suốt giai đoạn rút khỏi nghiên cứu, các triệu chứng bệnh vảy nến tái phát trở lại với thời gian tái phát bệnh trung bình (sụt giảm PGA “vừa” hoặc xấu hơn) xấp xỉ khoảng 5 tháng. Không có bệnh nhân nào trải qua hiện tượng dội ngược trong suốt giai đoạn rút khỏi nghiên cứu. Tổng số 76,5% (218/285) bệnh nhân mà được đưa vào giai đoạn điều trị lại thì đã có một đáp ứng PGA “toàn bộ” hoặc “tối thiểu” sau 16 tuần điều trị lại, cho dù họ có tái phát bệnh trong suốt giai đoạn rút khỏi nghiên cứu hay không (69,1% [123/178] và 88,8% [95/107] lần lượt ở những bệnh nhân tái phát và không tái phát bệnh trong suốt giai đoạn rút khỏi nghiên cứu).  Một sự mô tả sơ lược về tính an toàn đã được quan sát trong suốt giai đoạn điều trị lại thì tương tự như trước khi rút khỏi nghiên cứu.
Việc cải thiện đáng kể ở Tuần 16 so với thời điểm ban đầu được so sánh với giả dược (Nghiên cứu I và II) và MTX (Nghiên cứu II) đã được chứng minh rõ trong DLQI (Chỉ Số Chất Lượng Cuộc Sống Về Bệnh Ngoài Da). Trong nghiên cứu I, sự cải thiện về điểm số tóm tắt thành phần thể chất và tinh thần của SF-36 cũng được so sánh có ý nghĩa với giả dược.
Trong một nghiên cứu mở rộng nhãn mở, ở những bệnh nhân mà liều dùng được tăng từ 40 mg mỗi 2 tuần một lần lên 40 mg mỗi tuần một lần do đáp ứng PASI là dưới 50%, 26,4% (92/349) và 37,8% (132/349) bệnh nhân thì đã thu được đáp ứng PASI 75 lần lượt ở Tuần 12 và 24.
Nghiên cứu vảy nến III (REACH) đã so sánh an toàn và hiệu quả của Humira với giả dược ở 72 bệnh nhân bị bệnh vảy nến thể mảng mạn tính mức độ vừa đến nặng và vảy nến ở tay và/hoặc ở chân. Bệnh nhân đã nhận được một liều khởi đầu là 80 mg Humira kế tiếp theo là liều 40 mg mỗi 2 tuần một lần (bắt đầu một tuần sau khi dùng liều khởi đầu) hoặc giả dược trong 16 tuần. Ở Tuần 16, tỉ lệ bệnh nhân mà sử dụng Humira có diễn biến tốt hơn đáng kể có ý nghĩa thống kê đã đạt được PGA “toàn thể” hoặc “gần như toàn thể” cho tay và/hoặc chân đã được so sánh với những bệnh nhân sử dụng giả dược (lần lượt là 30,6% so với 4,3% [P = 0,014]).
Bệnh vảy nến thể mảng ở trẻ em
Tính hiệu quả của Humira đã được đánh giá trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng ở 114 bệnh nhân nhi từ 4 tuổi trở lên bị bệnh vảy nến thể mảng mạn tính mức độ nặng (được định nghĩa là PGA ≥ 4 hoặc > 20% sự tham gia của BSA hoặc > 10% sự tham gia của BSA có những thương tổn rất dày đặc hoặc PASI ≥ 20 hoặc ≥ 10 bao gồm mặt, bộ phận sinh dục, tay/chân tương ứng trên lâm sàng) mà đã được kiểm soát không đầy đủ bằng liệu pháp cục bộ và liệu pháp ánh sáng mặt trời hoặc liệu pháp quang.
Bệnh nhân đã sử dụng Humira 0,8 mg/kg mỗi 2 tuần một lần (cho đến 40 mg), 0,4 mg/kg mỗi cách tuần một lần (cho đến 20 mg), hoặc methotrexate 0,1 - 0,4 mg/kg mỗi tuần (cho đến 25 mg). Ở Tuần 16, số bệnh nhân mà được phân ngẫu nhiên để sử dụng Humira liều 0,8 mg/kg đã có được những đáp ứng rõ ràng về tính hiệu quả (ví dụ, PASI 75) nhiều hơn số bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để sử dụng liều 0,4 mg/kg mỗi cách tuần một lần hoặc MTX.
- xem Bảng 12.

Những bệnh nhân mà đã đạt được PASI 75 và PGA toàn bộ hoặc tối thiểu được cho ngưng điều trị cho đến 36 tuần và được giám sát về việc mất kiểm soát bệnh (tức là giảm PGA ít nhất 2 mức độ).  Sau đó bệnh nhân được điều trị lại tiếp theo bằng adalimumab 0,8 mg/kg mỗi cách tuần một lần cho thêm 16 tuần nữa và tỉ lệ đáp ứng đã được quan sát thấy trong suốt quá trình điều trị lại tương tự như giai đoạn mù đôi trước đó:  đáp ứng PASI 75 là 78,9% (15 trong 19 đối tượng) và PGA toàn bộ hoặc tối thiểu là 52,6% (10 trong 19 đối tượng).
Trong giai đoạn nhãn mở của nghiên cứu, PASI 75 và đáp ứng PGA toàn bộ hoặc tối thiểu đã được duy trì cho đến thêm 52 tuần nữa mà không có phát hiện nào mới về tính an toàn.
Viêm tuyến mồ hôi mưng mủ
Tính an toàn và hiệu quả của Humira đã được đánh giá trong những nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược và một nghiên cứu mở rộng nhãn mở ở những bệnh nhân trưởng thành bị viêm tuyến mồ hôi mưng mủ (HS) mức độ vừa đến nặng không dung nạp thuốc, bị chống chỉ định hoặc thiếu đáp ứng với liệu pháp điều trị kháng sinh toàn thân trong thử nghiệm kéo dài ít nhất 3 tháng. Những bệnh nhân trong nghiên cứu HS-I và HS-II có bệnh đang ở giai đoạn Hurley II hoặc III với ít nhất 3 ổ áp xe hoặc có những cục u nhỏ do viêm.
Nghiên cứu HS-I (PIONEER I) đã đánh giá trên 307 bệnh nhân với 2 giai đoạn điều trị. Trong giai đoạn A, các bệnh nhân đã sử dụng giả dược hoặc Humira với liều ban đầu là 160 mg ở thời điểm Tuần 0, 80 mg ở Tuần 2, và 40 mg mỗi tuần bắt đầu từ Tuần 4 đến Tuần 11. Việc sử dụng kháng sinh kèm theo không được cho phép trong suốt nghiên cứu. Sau 12 tuần của quá trình điều trị, những bệnh nhân mà đã sử dụng Humira trong giai đoạn A đã được phân ngẫu nhiên lại trong giai đoạn B vào 1 trong 3 nhóm điều trị (Humira 40 mg mỗi tuần một lần, Humira 40 mg mỗi cách tuần một lần, hoặc giả dược từ Tuần 12 đến Tuần 35). Những bệnh nhân đã được phân ngẫu nhiên để sử dụng giả dược trong giai đoạn A đã được cho sử dụng Humira 40 mg mỗi tuần một lần trong giai đoạn B.
Nghiên cứu HS-II (PIONEER II) đánh giá trên 326 bệnh nhân trong 2 giai đoạn điều trị. Trong giai đoạn A, bệnh nhân đã sử dụng giả dược hoặc Humira với liều ban đầu là 160 mg ở tuần Tuần 0 và 80 mg ở Tuần 2 và 40 mg mỗi tuần một lần bắt đầu từ Tuần 4 đến Tuần 11. 19,3% bệnh nhân đã tiếp tục liệu pháp kháng sinh đường uống ban đầu trong suốt nghiên cứu. Sau 12 tuần của quá trình điều trị, những bệnh nhân mà đã sử dụng Humira trong giai đoạn A đã được phân ngẫu nhiên lại trong giai đoạn B vào 1 trong 3 nhóm điều trị (Humira 40 mg mỗi tuần một lần, Humira 40 mg mỗi 2 tuần một lần, hoặc giả dược từ Tuần 12 đến Tuần 35). Những bệnh nhân mà đã được phân ngẫu nhiên để sử dụng giả dược trong giai đoạn A đã được cho sử dụng giả dược trong giai đoạn B.
Những bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu HS-I và HS-II thích hợp để thu nhận vào một nghiên cứu mở rộng nhãn mở, trong đó Humira 40mg được sử dụng mỗi tuần một lần. Trong suốt 3 nghiên cứu, bệnh nhân đã sử dụng chất sát trùng tại chỗ để rửa hằng ngày.
Đáp ứng lâm sàng
Sự giảm đi các tổn thương do viêm và việc phòng ngừa tiến triển xấu đi của những ổ áp xe và các rò đang dẫn lưu đã được đánh giá bằng Đáp Ứng Lâm Sàng Của Tình Trạng Viêm Tuyến Mồ Hôi Mưng Mủ (HiSCR; giảm ít nhất 50% trong tổng số ổ áp xe và số lượng cục u nhỏ do viêm mà không tăng số lượng áp xe và rò đang dẫn lưu có liên quan đến thời điểm ban đầu).  Sự giảm mức độ đau về da có liên quan đến HS đã được đánh giá bằng cách sử dụng một Thang Đo Đánh Giá Bằng Trị Số ở những bệnh nhân đã tham gia vào nghiên cứu có điểm số lúc ban đầu là ≥ 3 theo thang đo 11 điểm.
Ở Tuần 12, tỉ lệ bệnh nhân điều trị bằng Humira đạt được HiSCR cao hơn có ý nghĩa so với giả dược. Ở Tuần 12, tỉ lệ bệnh nhân trong nghiên cứu HS-II mà đã có thuyên giảm trên lâm sàng đối với tình trạng đau da có liên quan đến HS thì cao hơn có ý nghĩa (xem Bảng 13). Những bệnh nhân mà đã điều trị bằng Humira có nguy cơ bùng phát bệnh giảm đi có ý nghĩa trong suốt 12 tuần đầu của quá trình điều trị.
- xem Bảng 13.

Việc điều trị bằng Humira 40 mg mỗi tuần một lần làm giảm đi có ý nghĩa về nguy cơ tiến triển xấu đi của những ổ áp xe và rò đang dẫn lưu. Tỉ lệ bệnh nhân trong nhóm giả dược ở 12 tuần đầu của nghiên cứu HS-I và HS-II mà đã trải qua một tiến triển xấu hơn của những ổ áp xe xấp xỉ gấp hai lần so với nhóm Humira (lần lượt là 23,0% so với 11,4%) và những rò đang dẫn lưu (lần lượt là 30,0% so với 13,9%).
Mức độ cải thiện tốt hơn ở Tuần 12 so với ban đầu mà đã được so sánh với giả dược cho thấy rõ chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe riêng về da, theo như được đo bằng Chỉ Số Chất Lượng Cuộc Sống Về Bệnh Ngoài Da (DLQI; Nghiên cứu HS-I và HS-II), sự hài lòng chung của bệnh nhân đối với liệu pháp điều trị bằng thuốc theo như được đo bằng Bảng Câu Hỏi Về Mức Độ Hài Lòng Đối Với Sự Điều Trị - điều trị bằng thuốc (TSQM; Nghiên cứu HS-I và HS-II), và sức khỏe thể chất theo như được đo bằng điểm số tóm tắt các thành phần thể chất của SF-36 (Nghiên cứu HS-I).
Trong số những bệnh nhân có ít nhất một đáp ứng cục bộ đối với liều Humira 40 mg mỗi tuần một lần ở Tuần 12, thì tỉ lệ HiSCR ở Tuần 36 của nhóm bệnh nhân tiếp tục sử dụng liều Humira mỗi tuần một lần cao hơn so với nhóm bệnh nhân mà tần số của liều dùng được giảm còn mỗi cách tuần một lần hoặc nhóm bệnh nhân đã ngưng điều trị.
- xem Bảng 14.

Trong số những bệnh nhân mà có ít nhất một đáp ứng cục bộ ở Tuần 12, và đã sử dụng tiếp tục liều Humira mỗi tuần một lần, tỉ lệ HiSCR ở Tuần 48 là 64,3%.
Trong số những bệnh nhân mà liệu pháp Humira được ngưng ở Tuần 12 trong nghiên cứu HS-I và HS-II, thì tỉ lệ HiSCR trong 12 tuần sau khi đưa vào lại điều trị với liều Humira 40 mg mỗi tuần một lần đã trở lại ở mức giống như đã được quan sát thấy trước khi ngưng thuốc (56,0 %).
Bệnh Crohn
An toàn và hiệu quả của Humira đã được đánh giá cho trên 1500 bệnh nhân bị bệnh Crohn hoạt động mức độ vừa đến nặng (Chỉ Số Hoạt Động Bệnh Crohn (CDAI) ≥ 220 và ≤ 450) trong các nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược. Việc sử dụng đồng thời liều dùng ổn định của các aminosalicylate, corticosteroid, và/hoặc các thuốc điều hòa miễn dịch thì được cho phép và 80% bệnh nhân đã tiếp tục sử dụng ít nhất một trong những thuốc này.
Sự bắt đầu của việc thuyên giảm về mặt lâm sàng (được xác định bằng CDAI < 150) đã được đánh giá trong hai nghiên cứu, nghiên cứu CD I (CLASSIC I) và nghiên cứu CD II (GAIN). Trong nghiên cứu CD I, những bệnh nhân mà chưa sử dụng chất đối kháng TNF, 299 đã được phân ngẫu nhiên vào một trong bốn nhóm điều trị; giả dược ở Tuần 0 và 2, 160 mg Humira ở Tuần 0 và 80 mg ở Tuần 2, 80 mg ở Tuần 0 và 40 mg ở Tuần 2, và 40 mg ở Tuần 0 và 20 mg ở Tuần 2. Trong nghiên cứu CD II, 325 bệnh nhân mà đã mất đáp ứng hoặc không dung nạp với infliximab đã được phân ngẫu nhiên để sử dụng hoặc là 160 mg Humira ở Tuần 0 và 80 mg ở Tuần 2 hoặc giả dược ở Tuần 0 và 2. Những đối tượng không đáp ứng lúc đầu đã bị loại trừ ra khỏi nghiên cứu và vì vậy những bệnh nhân này đã không được đánh giá thêm nữa.
Việc duy trì sự thuyên giảm trên lâm sàng đã được đánh giá trong nghiên cứu CD III (CHARM).  Trong nghiên cứu CD III, 854 bệnh nhân đã sử dụng 80 mg nhãn mở ở Tuần 0 và 40 mg ở Tuần 2. Ở Tuần 4, các bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để sử dụng hoặc 40 mg mỗi cách tuần một lần, hoặc 40 mg mỗi tuần một lần, hoặc giả dược với tổng thời gian nghiên cứu là 56 tuần. Những bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng (giảm CDAI ≥ 70) ở Tuần 4 đã được phân tầng và phân tích tách biệt với những bệnh nhân không có đáp ứng lâm sàng ở Tuần 4. Sự giảm liều corticosteroid dần dần được cho phép sau Tuần 8.
Trong nghiên cứu CD I và CD II, sự bắt đầu thuyên giảm và tỉ lệ đáp ứng được trình bày trong Bảng 15.
- xem Bảng 15.

Tỉ lệ thuyên giảm tương tự cũng được quan sát thấy ở những chế độ điều trị bắt đầu bằng liều 160/80 mg và 80/40 mg vào Tuần 8 và những biến cố bất lợi được ghi nhận thường xuyên hơn ở nhóm dùng liều 160/80 mg.
Trong nghiên cứu CD III, ở Tuần 4, 58% (499/854) bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng và được đánh giá trong phân tích sơ bộ ban đầu. Trong số những bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng ở Tuần 4, 48% đã tiếp xúc trước đây với các tác nhân đối kháng TNF khác. Việc duy trì sự thuyên giảm và tỉ lệ đáp ứng được trình bày trong Bảng 16. Các kết quả thuyên giảm trên lâm sàng vẫn tương đối hằng định bất kể có tiếp xúc với các tác nhân đối kháng TNF trước hay không.
Việc nhập viện và các phẫu thuật có liên quan đến bệnh đã giảm đi đáng kể có ý nghĩa thống kê khi sử dụng adalimumab so với giả dược ở Tuần 56.
- xem Bảng 16.

Trong số những bệnh nhân không có đáp ứng ở Tuần 4, 43% trong số những bệnh nhân duy trì sử dụng Humira đã đáp ứng ở Tuần 12 so với 30% trong số những bệnh nhân duy trì sử dụng giả dược. Những kết quả này gợi ý rằng một vài bệnh nhân mà không có đáp ứng ở Tuần 4 sẽ có lợi nếu duy trì liệu pháp điều trị tiếp tục cho đến Tuần 12. Liệu pháp điều trị tiếp tục quá 12 tuần đã không đưa đến nhiều đáp ứng hơn có ý nghĩa (xem mục Liều lượng và cách dùng).
117/276 bệnh nhân từ nghiên cứu CD I và 272/777 bệnh nhân từ nghiên cứu CD II và III đã được theo dõi trong suốt ít nhất 3 năm của liệu pháp điều trị bằng adalimumab nhãn mở. Lần lượt có 88 và 189 bệnh nhân tiếp tục có sự thuyên giảm trên lâm sàng. Đáp ứng trên lâm sàng (CR-100) đã được duy trì tương ứng ở 102 và 233 bệnh nhân.
Chất lượng cuộc sống
Trong nghiên cứu CD I và CD II, sự cải thiện có ý nghĩa thống kê theo tổng điểm số trong bảng câu hỏi về viêm ruột (IBDQ) đặc trưng cho bệnh đã đạt được vào Tuần 4 ở những bệnh nhân được phân ngẫu nhiên sử dụng Humira 80/40 mg và 160/80 mg được so sánh với giả dược và cũng được thấy ở Tuần 26 và 56 trong nghiên cứu CD III ở nhóm điều trị bằng adalimumab được so sánh với nhóm giả dược.
Bệnh Crohn ở trẻ em
Humira đã được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, mà đã được thiết kế để đánh giá an toàn và hiệu quả của liệu pháp điều trị ban đầu và điều trị duy trì với liều dùng phụ thuộc vào cân nặng của cơ thể (< 40 kg hoặc ≥ 40 kg) ở 192 đối tượng nghiên cứu là trẻ em ở độ tuổi từ 6 đến 17, bị bệnh Crohn (CD) mức độ vừa đến nặng được xác định bằng điểm số của Chỉ Số Hoạt Động Bệnh Crohn Ở Trẻ Em (PCDAI) >30.  Đối tượng cho nghiên cứu CD phải là những bệnh nhân đã thất bại với liệu pháp điều trị thường quy (bao gồm corticosteroid và/hoặc thuốc điều chỉnh miễn dịch). Bệnh nhân cũng có thể mất đáp ứng hoặc không dung nạp với infliximab trước đây.
Tất cả bệnh nhân đều nhận liệu pháp điều trị ban đầu nhãn mở với liều dùng thuốc được tính dựa theo cân nặng cơ thể ban đầu của họ: 160 mg ở Tuần 0 và 80 mg ở Tuần 2 cho những bệnh nhân ≥ 40 kg và 80 mg ở Tuần 0 và 40 mg ở Tuần 2 cho bệnh nhân < 40 kg.
Ở Tuần 4, bệnh nhân được phân ngẫu nhiên 1:1 dựa trên cân nặng cơ thể của họ lúc đó để theo chế độ điều trị duy trì liều tiêu chuẩn hoặc liều thấp theo như được chỉ ra trong Bảng 17.
- xem Bảng 17.

Kết quả về tính hiệu quả
Kết cục lâm sàng chính yếu của nghiên cứu là mức độ thuyên giảm trên lâm sàng ở Tuần 26, được xác định theo điểm số PCDAI ≤ 10.
Tỉ lệ có sự thuyên giảm trên lâm sàng và đáp ứng trên lâm sàng (được xác định là điểm PCDAI giảm ít nhất 15 điểm kể từ lúc ban đầu) được trình bày trong Bảng 18. Tỉ lệ bệnh nhân không tiếp tục sử dụng corticosteroid hoặc thuốc điều hòa miễn dịch được trình bày trong Bảng 19.
- xem Bảng 18 và 19.

Mức độ tăng lên đáng kể có ý nghĩa thống kê (về tình trạng cải thiện) kể từ thời điểm ban đầu đến Tuần 26 và 52 theo Chỉ Số Khối Lượng Cơ Thể và tốc độ cao đã được quan sát thấy trong cả hai nhóm điều trị.
Mức độ cải thiện có ý nghĩa về mặt thống kê và lâm sàng tính từ thời điểm ban đầu cũng được quan sát thấy ở cả hai nhóm điều trị theo các thông số chất lượng cuộc sống (bao gồm IMPACT III).
Một trăm bệnh nhân (n=100) của nghiên cứu CD ở trẻ em đã tiếp tục tham gia vào một nghiên cứu mở rộng dài hạn nhãn mở. Sau 5 năm điều trị bằng liệu pháp adalimumab, 74,0% (37/50) trong số 50 bệnh nhân còn lại trong nghiên cứu đã tiếp tục thuyên giảm trên lâm sàng, và 92,0% (46/50) bệnh nhân đã tiếp tục có đáp ứng lâm sàng theo PCDAI.
Viêm loét đại tràng
An toàn và hiệu quả của liều dùng Humira ở nhiều mức khác nhau đã được đánh giá ở những bệnh nhân trưởng thành bị viêm loét đại tràng hoạt động mức độ vừa đến nặng (điểm Mayo từ 6 đến 12 với điểm nhỏ về nội soi từ 2 đến 3) trong những nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược.
Trong nghiên cứu UC-I, 390 bệnh nhân chưa từng sử dụng chất đối kháng TNF đã được phân ngẫu nhiên để sử dụng hoặc là giả dược ở Tuần 0 và 2, hoặc 160 mg Humira ở Tuần 0 và tiếp theo là 80 mg ở Tuần 2, hoặc 80 mg Humira ở Tuần 0 và tiếp theo là 40 mg ở Tuần 2. Sau Tuần 2, những bệnh nhân ở cả hai nhánh adalimumab đã được cho sử dụng 40 mg mỗi cách tuần một lần. Mức độ thuyên giảm trên lâm sàng (được định nghĩa là điểm Mayo ≤ 2 và không có điểm nhỏ nào > 1) đã được đánh giá ở Tuần 8.
Trong nghiên cứu UC-II, 248 bệnh nhân sử dụng 160 mg Humira ở Tuần 0, 80 mg ở Tuần 2 và 40 mg mỗi cách tuần một lần sau đó, và 246 bệnh nhân sử dụng giả dược. Kết cục trên lâm sàng đã được đánh giá về bước đầu của sự thuyên giảm ở Tuần 8 và bước duy trì tình trạng thuyên giảm ở Tuần 52.
Những bệnh nhân dùng liều Humira 160/80 mg ban đầu đã có sự thuyên giảm trên lâm sàng ở Tuần 8 với tỉ lệ phần trăm cao hơn có ý nghĩa thống kê so với giả dược trong nghiên cứu UC-I (lần lượt là 18% so với 9%, p=0,031) và nghiên cứu UC-II (lần lượt là 17% so với 9%, p=0,019). Trong nghiên cứu UC-II, trong số những bệnh nhân được điều trị bằng Humira mà đã thuyên giảm ở Tuần 8, có 21/41 (51%) đã thuyên giảm ở Tuần 52.
Những kết quả thu được từ toàn bộ bệnh nhân tham gia nghiên cứu UC-II được trình bày trong Bảng 20.
- xem Bảng 20.

Trong số những bệnh nhân đã có đáp ứng ở Tuần 8, có 47% bệnh nhân có đáp ứng, 29% có thuyên giảm, 41% có niêm mạc đã lành, và 20% có thuyên giảm không có steroid trong ≥ 90 ngày ở Tuần 52.
Xấp xỉ khoảng 40% bệnh nhân trong nghiên cứu UC-II đã thất bại với liệu pháp điều trị kháng TNF bằng infliximab trước đây. Hiệu quả của adalimumab ở những bệnh nhân đó đã giảm đi so với ở những bệnh nhân chưa trải qua liệu pháp kháng TNF. Trong số những bệnh nhân mà đã thất bại với liệu pháp điều trị kháng TNF trước đây, sự thuyên giảm ở Tuần 52 đã đạt được ở 3% bệnh nhân trong nhóm giả dược và 10% bệnh nhân trong nhóm adalimumab.
Những bệnh nhân từ nghiên cứu UC-I và UC-II có quyền lựa chọn để tham gia vào một nghiên cứu mở rộng dài hạn nhãn mở (UC III). Trong 3 năm tiếp theo của liệu pháp điều trị adalimumab, có 75% (301/402) tiếp tục có sự thuyên giảm trên lâm sàng theo điểm Mayo riêng phần.
Tỉ lệ nhập viện
Trong suốt 52 tuần của nghiên cứu UC-I và UC-II, tỉ lệ các trường hợp nhập viện do tất cả các nguyên nhân và nhập viện do có liên quan đến UC đã được quan sát thấy ở nhánh điều trị bằng adalimumab thì thấp hơn so với nhánh giả dược. Số lượng trường hợp nhập viện do tất cả các nguyên nhân ở nhóm điều trị bằng adalimumab là 0,18 bệnh nhân mỗi năm so với nhóm giả dược là 0,26 bệnh nhân mỗi năm và con số tương ứng cho các trường hợp nhập viện do có liên quan đến UC là 0,12 bệnh nhân năm so với 0,22 bệnh nhân năm.
Chất lượng cuộc sống
Trong nghiên cứu UC-II, việc điều trị bằng adalimumab đã đưa đến kết quả là sự cải thiện về điểm số của Bảng Câu Hỏi Về Bệnh Viêm Ruột (IBDQ).
Viêm màng bồ đào
An toàn và hiệu quả của Humira đã được đánh giá ở những bệnh nhân trưởng thành viêm màng bồ đào trung gian, sau, lan tỏa không nhiễm trùng, loại trừ những bệnh nhân bị viêm màng bồ đào trước đơn thuần, trong hai nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược (UV I và UV II). Bệnh nhân đã sử dụng hoặc là giả dược hoặc là Humira với liều khởi đầu là 80 mg tiếp theo sau là liều 40 mg mỗi 2 tuần một lần được bắt đầu sau liều khởi đầu một tuần. Liều dùng ổn định của liệu pháp ức chế miễn dịch không sinh học kèm theo được cho phép.
Nghiên cứu UV I đã đánh giá trên 217 bệnh nhân bị viêm màng bồ đào dạng hoạt động mặc dù đã điều trị bằng corticosteroid (prednisone đường uống với liều từ 10 đến 60 mg/ngày). Tất cả bệnh nhân khi bắt đầu nghiên cứu đều đã được sử dụng liều chuẩn prednisone 60 mg/ngày trong 2 tuần và theo sau là một lịch trình bắt buộc giảm liều dần dần và ngưng hoàn toàn corticosteroid ở Tuần 15.
Nghiên cứu UV II đánh giá trên 226 bệnh nhân bị viêm màng bồ đào không hoạt động mà đòi hỏi một liệu pháp điều trị bằng corticosteroid thường xuyên (prednisone đường uống với liều từ 10 đến 35 mg/ngày) lúc ban đầu để kiểm soát bệnh của họ. Bệnh nhân đã trải qua một lịch trình bắt buộc giảm liều dần dần về sau, và ngừng hoàn toàn corticosteroid ở Tuần 19.
Kết cục về hiệu quả lâm sàng chính ở cả hai nghiên cứu là ‘thời gian dẫn đến thất bại về điều trị’. Thất bại về điều trị được định nghĩa là một kết quả lâm sàng nhiều thành phần căn cứ vào những tổn thương do viêm màng đệm võng mạc và/hoặc tổn thương về mạch máu do viêm võng mạc, lớp tế bào khoang phía trước (AC), mức độ đục thủy tinh thể (VH) và độ tinh mắt được điều chỉnh tốt nhất (BCVA).
Đáp ứng lâm sàng
Kết quả từ cả hai nghiên cứu đã cho thấy rõ mức độ giảm có ý nghĩa thống kê về nguy cơ thất bại trong điều trị ở những bệnh nhân được điều trị bằng Humira so với những bệnh nhân sử dụng giả dược (xem Bảng 21). Cả hai nghiên cứu đã chứng minh một sự ảnh hưởng sớm và được duy trì liên tục của Humira trên tỉ lệ bị thất bại về điều trị so với giả dược (xem Hình 1).
- xem Bảng 21 và Hình 1.

Trong nghiên cứu UV I, sự khác nhau đáng kể có ý nghĩa thống kê nghiên về cho adalimumab so với giả dược đã được quan sát thấy trong mỗi thành phần của sự thất bại về điều trị. Trong nghiên cứu UV II, sự khác nhau đáng kể có ý nghĩa thống kê chỉ được thấy ở thị lực nhạy, nhưng các thành phần khác nghiên về hơn cho adalimumab.
Chất lượng cuộc sống
Những kết cục do bệnh nhân báo cáo về chức năng liên quan đến tầm nhìn đã được đánh giá ở cả hai nghiên cứu lâm sàng, bằng cách dùng NEI VFQ-25. Humira được ưu thế hơn từ phần lớn những điểm nhỏ với sự khác nhau trung bình có ý nghĩa thống kê về tầm nhìn chung, đau mắt, tầm nhìn gần, sức khỏe tinh thần, và tổng điểm trong Nghiên cứu UV I, và về tầm nhìn chung và sức khỏe tinh thần trong Nghiên cứu UV II. Những ảnh hưởng liên quan đến tầm nhìn không ủng hộ nhiều cho Humira về khả năng nhìn màu trong nghiên cứu UV I và về khả năng nhìn màu, tầm nhìn ngoại vi và tầm nhìn gần trong Nghiên cứu UV II.
Tính sinh miễn dịch
Sự hình  thành kháng thể kháng adalimumab có liên quan đến sự gia tăng độ thanh thải và làm giảm hiệu quả của adalimumab. Không có sự tương quan rõ ràng giữa sự hiện diện của kháng thể kháng adalimumab và việc xảy ra các biến cố bất lợi.
Những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp trong nghiên cứu I, II, và III đã được kiểm tra ở nhiều thời điểm về kháng thể kháng adalimumab trong suốt khoảng thời gian từ 6 đến 12 tháng. Trong những thử nghiệm chủ chốt, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 5,5% (58/1053) bệnh nhân được điều trị bằng adalimumab, so với 0,5% (2/370) ở nhóm giả dược. Ở những bệnh nhân không được cho sử dụng methotrexate đồng thời, tỉ lệ mắc phải là 12,4%, so với 0,6% khi adalimumab được sử dụng kèm theo với methotrexate.
Ở những bệnh nhân bị viêm đa khớp tự phát ở thanh thiếu niên ở độ tuổi từ 4 đến 17 tuổi, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 15,8% (27/171) bệnh nhân đã được điều trị bằng adalimumab. Ở những bệnh nhân không được cho sử dụng methotrexate đồng thời, tỉ lệ mắc phải là 25,6% (22/86), so với 5,9% (5/85) khi adalimumab được sử dụng kèm theo với methotrexate.
Ở những bệnh nhân bị viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 10,9% (5/46) bệnh nhân đã được điều trị bằng adalimumab. Ở những bệnh nhân không được cho sử dụng methotrexate đồng thời, tỉ lệ mắc phải là 13,6% (3/22), so với 8,3% (2/24) khi adalimumab được sử dụng kèm theo với methotrexate.
Ở những bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 10% (38/376) bệnh nhân đã được điều trị bằng adalimumab. Ở những bệnh nhân không được cho sử dụng methotrexate đồng thời, tỉ lệ mắc phải là 13,5% (24/178 bệnh nhân), so với 7% (14/198 bệnh nhân) khi adalimumab được sử dụng kèm theo với methotrexate.
Ở những bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 17/204 bệnh nhân (8,3%) đã được điều trị bằng adalimumab. Ở những bệnh nhân không được cho sử dụng methotrexate đồng thời, tỉ lệ mắc phải là 16/185 (8,6%), so với 1/19 (5,3%) khi adalimumab được sử dụng kèm theo với methotrexate.
Ở những bệnh nhân bị bệnh Crohn, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 7/269 bệnh nhân (2,6%) và ở 19/487 bệnh nhân (3,9%) bị viêm loét đại tràng.
Ở những bệnh nhân bị vảy nến, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 77/920 bệnh nhân (8,4%) đã được điều trị bằng đơn trị liệu adalimumab.
Ở những bệnh nhân bị bệnh vảy nến thể mảng ở người lớn điều trị bằng đơn trị liệu adalimumab dài hạn, đã tham gia vào nghiên cứu rút ra và điều trị lại, tỉ lệ kháng thể kháng adalimumab sau khi điều trị lại (11 trong 482 bệnh nhân, 2,3%) giống với tỉ lệ được nhận thấy trước khi rút ra khỏi nghiên cứu (11 trong 590 bệnh nhân, 1,9%).
Ở những bệnh nhân bị vảy nến trẻ em, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 5/38 bệnh nhân (13%) đã được điều trị bằng đơn trị liệu adalimumab với liều 0,8 mg/kg.
Ở những bệnh nhân bị viêm tuyến mồ hôi mưng mủ mức độ vừa đến nặng, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 10/99 bệnh nhân (10,1%) đã được điều trị bằng adalimumab.
Ở những bệnh nhân bị bệnh Crohn ở trẻ em dạng hoạt động mức độ vừa đến nặng, tỉ lệ phát triển kháng thể kháng adalimumab ở bệnh nhân đã sử dụng adalimumab là 3,3%.
Ở những bệnh nhân bị viêm màng bồ đào không nhiễm trùng, kháng thể kháng adalimumab đã được nhận biết ở 4,8% (12/249) bệnh nhân đã được điều trị bằng adalimumab.
Bởi vì phân tích về tính sinh miễn dịch là một kết quả riêng, nên sự so sánh tỉ lệ kháng thể với các kết quả khác là không phù hợp.
Đối tượng nghiên cứu trẻ em
Cơ quan quản lý dược phẩm châu Âu đã hoãn lại nghĩa vụ nộp các kết quả nghiên cứu đối với Humira ở một hoặc nhiều tập con của đối tượng nghiên cứu trẻ em về viêm loét đại tràng, viêm tuyến mồ hôi mưng mủ và viêm màng bồ đào không nhiễm trùng, xem phần Liều lượng và cách dùng về thông tin cách sử dụng cho trẻ em.

Dược động học

Hấp thu và phân bố
Sau khi tiêm dưới da liều đơn 40 mg, sự hấp thu và phân bố của adalimumab chậm, với nồng độ đỉnh trong huyết thanh đạt được sau khi tiêm khoảng 5 ngày. Sinh khả dụng tuyệt đối trung bình của adalimumab được đánh giá từ ba nghiên cứu cho một liều đơn 40 mg tiêm dưới da là 64%. Sau khi tiêm tĩnh mạch những liều đơn biến thiên từ 0,25 đến 10 mg/kg, nồng độ tỉ lệ với liều dùng. Sau khi tiêm liều 0,5 mg/kg (~40 mg), độ thanh thải biến thiên từ 11 đến 15 ml/giờ, thể tích phân bố (Vss) biến thiên từ 5 đến 6 lít và thời gian bán thải ở giai đoạn cuối cùng trung bình xấp xỉ là hai tuần. Nồng độ adalimumab trong hoạt dịch của một vài bệnh nhân viêm khớp dạng thấp biến thiên từ 31-96% so với nồng độ trong huyết thanh.
Sau khi tiêm dưới da adalimumab 40 mg mỗi 2 tuần một lần ở những bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp dạng thấp (RA), thì nồng độ thấp nhất trung bình ở trạng thái ổn định lần lượt xấp xỉ 5 μg/ml (không sử dụng methotrexate đồng thời) và 8 đến 9 μg/ml (có sử dụng methotrexate đồng thời). Nồng độ thấp nhất của adalimumab trong huyết thanh ở trạng thái ổn định tăng lên một cách mạnh mẽ theo tỉ lệ với liều dùng 20, 40, 80 mg tiêm dưới da mỗi cách tuần một lần và mỗi tuần một lần.
Sau khi tiêm dưới da liều 24 mg/m2 (lên đến liều tối đa là 40 mg) mỗi 2 tuần một lần cho những bệnh nhân bị viêm đa khớp tự phát ở thanh thiếu (JIA) ở độ tuổi từ 4 đến 17 tuổi, thì nồng độ thấp nhất trung bình của adalimumab trong huyết thanh ở trạng thái ổn định (giá trị được đo từ tuần 20 đến tuần 48) là 5,6 ± 5,6 µg/ml (102% CV) cho trường hợp adalimumab không sử dụng đồng thời với methotrexate và 10,9 ± 5,2 µg/ml (47,7% CV) cho trường hợp có sử dụng methotrexate đồng thời.
Ở những bệnh nhân bị viêm đa khớp tự phát ở thanh thiếu niên ở độ tuổi từ 2 đến < 4 tuổi hoặc ≥ 4 tuổi và có cân nặng < 15 kg, được cho liều adalimumab 24 mg/m2, thì nồng độ thấp nhất trung bình của adalimumab trong huyết thanh ở trạng thái ổn định là 6,0 ± 6,1 µg/ml (101% CV) cho trường hợp adalimumab không sử dụng đồng thời với methotrexate và 7,9 ± 5,6 µg/ml (71,2% CV) cho trường hợp có sử dụng methotrexate đồng thời.
Sau khi tiêm dưới da liều 24 mg/m2 (lên đến liều tối đa là 40 mg) mỗi cách tuần một lần cho những bệnh nhân bị viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận ở độ tuổi từ 6 đến 17 tuổi, thì nồng độ thấp nhất trung bình của adalimumab trong huyết thanh ở trạng thái ổn định (giá trị được đo ở tuần 24) là 8,8 ± 6,6 μg/ml cho trường hợp adalimumab không sử dụng đồng thời với methotrexate và 11,8 ± 4,3 μg/ml cho trường hợp có sử dụng methotrexate đồng thời.
Ở những bệnh nhân trưởng thành bị vảy nến, nồng độ thấp nhất trung bình ở trạng thái ổn định là 5 μg/ml trong suốt quá trình điều trị đơn liệu pháp adalimumab 40 mg mỗi cách tuần 1 lần.
Sau khi tiêm dưới da liều 0,8 mg/kg (lên đến liều tối đa là 40 mg) mỗi cách tuần một lần cho những bệnh nhân trẻ em vảy nến thể mảng mạn tính, thì nồng độ thấp nhất trung bình ± SD của adalimumab ở trạng thái ổn định xấp xỉ là 7,4 ± 5,8 µg/mL (79% CV).
Ở những bệnh nhân bị viêm tuyến mồ hôi mưng mủ, liều 160 mg Humira ở tuần 0 theo sau là liều 80 mg ở tuần 2 đã đạt được nồng độ thấp nhất của adalimumab trong huyết thanh xấp xỉ là 7 đến 8 μg/mL ở tuần 2 và tuần 4. Nồng độ trũng trung bình ở giai đoạn ổn định từ tuần 12 đến tuần 36 xấp xỉ là 8 đến 10 μg/mL trong suốt quá trình điều trị bằng adalimumab 40 mg mỗi tuần 1 lần.
Ở những bệnh nhân bị bệnh Crohn, được cho liều nạp 80 mg Humira ở tuần 0 theo sau là 40 mg Humira ở tuần 2 đạt được nồng độ thấp nhất của adalimumab trong huyết thanh xấp xỉ là 5,5 μg/ml trong suốt giai đoạn khởi đầu. Liều nạp 160 mg Humira ở tuần 0 theo sau là 80 mg Humira ở tuần 2 đạt được nồng độ thấp nhất của adalimumab trong huyết thanh xấp xỉ là 12 μg/ml trong suốt giai đoạn khởi đầu. Nồng độ thấp nhất trung bình ở trạng thái ổn định xấp xỉ là 7 μg/ml được quan sát thấy ở những bệnh nhân bị bệnh Crohn mà đã duy trì sử dụng liều 40 mg Humira mỗi 2 tuần một lần.
Trong số những bệnh nhân trẻ em bị CD mức độ vừa đến nặng, liều ban đầu adalimumab nhãn mở là 160/80 mg hoặc 80/40 mg lần lượt ở tuần 0 và 2, tùy thuộc vào ngưỡng cân nặng cơ thể 40 kg. Ở tuần 4, bệnh nhân được phân ngẫu nhiên 1:1 để vào nhóm điều trị duy trì hoặc là liều chuẩn (40/20 mg mỗi cách tuần một lần) hoặc là liều thấp (20/10 mg mỗi cách tuần một lần) dựa vào cân nặng cơ thể của họ. Nồng độ thấp nhất trung bình (±SD) của adalimumab trong huyết thanh đạt được ở tuần 4 là 15,7 ± 6,6 μg/ml ở bệnh nhân ≥ 40 kg (160/80 mg) và 10,6 ± 6,1 μg/ml ở bệnh nhân < 40 kg (80/40 mg).
Đối với những bệnh nhân mà tiếp tục liệu pháp điều trị đã được phân ngẫu nhiên của họ thêm một thời gian nữa, nồng độ thấp nhất trung bình (±SD) của adalimumab ở tuần 52 là 9,5 ± 5,6 μg/ml ở nhóm liều chuẩn và 3,5 ± 2,2 μg/ml ở nhóm liều thấp. Nồng độ trũng trung bình được duy trì ở những bệnh nhân mà tiếp tục điều trị bằng adalimumab mỗi cách tuần một lần trong 52 tuần. Đối với những bệnh nhân mà liều dùng được tăng từ chế độ điều trị mỗi cách tuần một lần sang mỗi tuần một lần, nồng độ trung bình (±SD) của adalimumab trong huyết thanh ở tuần 52 là 15,3 ± 11,4 μg/ml (40/20 mg, mỗi tuần một lần) và 6,7 ± 3,5 μg/ml (20/10 mg, mỗi tuần một lần).
Ở những bệnh nhân bị viêm loét đại tràng, được cho liều nạp 160 mg Humira ở tuần 0 theo sau là 80 mg Humira ở tuần 2 đạt được nồng độ thấp nhất của adalimumab trong huyết thanh xấp xỉ là 12 μg/ml trong suốt giai đoạn khởi đầu. Nồng độ thấp nhất trung bình ở trạng thái ổn định xấp xỉ là 8 μg/ml được quan sát thấy ở những bệnh nhân bị viêm loét đại tràng mà đã duy trì sử dụng liều 40 mg Humira mỗi 2 tuần một lần.
Ở những bệnh nhân bị viêm màng bồ đào, được cho liều nạp 80 mg adalimumab ở tuần 0 theo sau là 40 mg adalimumab mỗi cách tuần một lần bắt đầu vào tuần 1, thu được kết quả là nồng độ trung bình ở trạng thái ổn định xấp xỉ là 8 đến 10 μg/ml.

Thải trừ
Tập hợp các phân tích dược động học với dữ liệu thu được từ 1300 bệnh nhân RA đã phát hiện ra một khuynh hướng là độ thanh thải của adalimumab cao hơn rõ ràng khi khối lượng cơ thể tăng. Sau khi điều chỉnh sự khác nhau về khối lượng, giới tính và tuổi có một ảnh hưởng rất nhỏ lên độ thanh thải của adalimumab. Nồng độ trong huyết thanh của adalimumab dạng tự do (không gắn với kháng thể kháng adalimumab, AAA) đã được thấy là thấp hơn ở những bệnh nhân có AAA có thể đo được.

Bệnh gan hoặc bệnh thận
Humira chưa được nghiên cứu ở những bệnh nhân suy gan hoặc suy thận.

An toàn tiền lâm sàng

Dữ liệu tiền lâm sàng chỉ ra rằng không có nguy cơ đặc biệt nào khi thuốc được sử dụng cho người căn cứ vào những nghiên cứu về độc tính của liều đơn, độc tính liều lặp lại, và độc tính ở cấp độ di truyền.
Một nghiên cứu về sự phát triển chu sinh/độc tính phát triển ở phôi thai đã được thực hiện trên loài khỉ cynomologous với liều 0,30 và 100 mg/kg (9-17 con khỉ/nhóm) và đã chỉ ra là không có bằng chứng có hại cho thai nhi do adalimumab. Nghiên cứu về khả năng sinh ung thư và đánh giá chuẩn về độc tính trên thai nhi và trẻ sơ sinh chưa được thực hiện với adalimumab vì thiếu mô hình phù hợp cho một kháng thể do có phản ứng chéo giới hạn với TNF của loài gặm nhấm và sự phát triển của những kháng thể trung hòa ở loài gặm nhấm.

Chỉ định/Công dụng

Viêm khớp dạng thấp

Humira kết hợp với methotrexat được chỉ định để:
- điều trị viêm khớp dạng thấp hoạt động ở mức độ trung bình hoặc nặng ở bệnh nhân trưởng thành khi mà sự đáp ứng với các thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh bao gồm cả methotrexate không đầy đủ.
- điều trị viêm khớp dạng thấp thể nặng, hoạt động và tiến triển ở bệnh nhân trưởng thành chưa được điều trị với methotrexate trước đó.
HUMIRA có thể được sử dụng đơn trị liệu trong trường hợp không dung nạp với methotrexate hoặc khi việc tiếp tục điều trị với methotrexate là không còn phù hợp.
HUMIRA được chứng minh làm giảm tốc độ tiến triển hủy khớp được đo bằng X-quang và giúp cải thiện chức năng thể chất, khi được dùng cùng với methotrexate.

Viêm khớp tự phát tuổi thanh thiếu niên

Viêm đa khớp tự phát tuổi thanh thiếu niên
Humira kết hợp với methotrexate được chỉ định trong điều trị viêm đa khớp tự phát tuổi thanh thiếu niên thể hoạt động ở bệnh nhân từ 2 tuổi mà không đáp ứng đầy đủ với một hoặc nhiều hơn các thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh (DMARDs). Humira có thể được dùng đơn trị liệu trong trường hợp không dung nạp với methotrexate hoặc khi việc tiếp tục điều trị với methotrexate là không phù hợp (xem hiệu quả của đơn trị liệu trong mục Dược lực học). Humira chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân dưới 2 tuổi.

Viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận

Humira được chỉ định trong điều trị viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận hoạt động ở bệnh nhân lớn hơn 6 tuổi, không đáp ứng đủ hoặc không dung nạp với liệu pháp truyền thống (xem mục Dược lực học).

Viêm khớp cột sống thể trục

Viêm cột sống dính khớp (AS)
Humira được chỉ định để điều trị viêm cột sống dính khớp nặng thể hoạt động ở bệnh nhân trưởng thành mà đáp ứng không đủ với liệu pháp truyền thống.
Viêm khớp cột sống thể trục - không có bằng chứng hình ảnh học của viêm cột sống dính khớp
Humira được chỉ định điều trị viêm khớp cột sống thể trục nặng ở người trưởng thành không có bằng chứng hình ảnh của viêm cột sống dính khớp nhưng có những dấu hiệu viêm khách quan như tăng CRP và/hoặc MRI, những người đáp ứng không đủ hoặc không dung nạp với thuốc kháng viêm không steroid.

Viêm khớp vảy nến

HUMIRA được chỉ định điều trị viêm khớp vảy nến hoạt động và tiến triển ở người trưởng thành khi không đáp ứng đầy đủ với liệu pháp sử dụng thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh. HUMIRA cho thấy làm giảm tốc độ tiến triển của việc hủy các khớp ngoại vi, được đo trên X-quang ở những bệnh nhân viêm đa khớp thể đối xứng (xem Dược lực học) và cải thiện chức năng thể chất.

Vảy nến

Humira được chỉ định điều trị bệnh vảy nến thể mảng mạn tính trung bình đến nặng ở bệnh nhân trưởng thành, những người có thể sử dụng liệu pháp toàn thân.
Vảy nến thể mảng ở trẻ em
Humira được chỉ định điều trị vảy nến thể mảng mạn tính nặng ở trẻ em và thanh thiếu niên từ 4 tuổi, những người đáp ứng không đầy đủ hoặc không phù hợp cho việc sử dụng liệu pháp ngoài da hoặc liệu pháp ánh sáng.
Viêm tuyến mồ hôi mưng mủ (HS)
Humira được chỉ định trong điều trị viêm tuyến mồ hôi mưng mủ hoạt động mức độ trung bình tới nặng (mụn trứng cá đảo ngược) ở bệnh nhân trưởng thành đáp ứng không đủ với liệu pháp điều trị viêm tuyến mồ hôi dạng mủ toàn thân truyền thống.

Bệnh Crohn's

HUMIRA được chỉ định trong điều trị bệnh Crohn thể hoạt động mức độ trung bình hoặc nặng ở bệnh nhân trưởng thành không có đáp ứng với liệu trình đầy đủ với corticosteroid và/hoặc chất ức chế miễn dịch, hoặc bệnh nhân không dung nạp hoặc có chống chỉ định với những liệu pháp như trên.
Bệnh Crohn ở trẻ em
Humira được chỉ định trong điều trị bệnh Crohn hoạt động mức độ trung bình cho đến nặng ở bệnh nhân nhi (từ 6 tuổi) đã có đáp ứng không đầy đủ với liệu pháp truyền thống bao gồm liệu pháp dinh dưỡng căn bản và một corticosteroid và/hoặc một thuốc ức chế miễn dịch, hoặc bệnh nhân không dung nạp hoặc chống chỉ định với các liệu pháp như trên.
Bệnh viêm loét đại tràng
Humira được chỉ định trong điều trị bệnh viêm loét đại tràng thể trung bình tới nặng ở bệnh nhân trưởng thành đáp ứng không đủ với liệu pháp truyền thống gồm corticosteroid và 6-mercaptopurine (6-MP) hoặc azathioprine (AZA) hoặc bệnh nhân không dung nạp hoặc có chống chỉ định với các liệu pháp trên.

Viêm màng bồ đào

Humira được chỉ định trong điều trị viêm màng bồ đào trung gian, sau và lan tỏa không nhiễm trùng ở bệnh nhân trưởng thành có đáp ứng không đầy đủ với corticosteroid, ở bệnh nhân cần điều trị thay thế corticosteroid hoặc ở bệnh nhân mà việc điều trị với corticosteroid là không phù hợp.

Liều lượng & Cách dùng

Điều trị bằng Humira nên được bắt đầu và theo dõi bởi bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm trong việc chẩn đoán và điều trị những tình trạng theo đó Humira được chỉ định. Bác sĩ nhãn khoa được khuyên nên tham vấn với chuyên gia phù hợp trước khi bắt đầu điều trị với Humira (xem mục Cảnh báo). Bệnh nhân điều trị với Humira nên được cung cấp thẻ cảnh báo đặc biệt.
Sau khi được đào tạo thích hợp về kỹ thuật tiêm, bệnh nhân có thể tự tiêm Humira nếu được bác sĩ của họ xác nhận là phù hợp và với theo dõi y khoa khi cần thiết.
Trong khi điều trị với Humira, các trị liệu đồng thời khác (ví dụ corticosteroid và/hoặc các thuốc ức chế miễn dịch) nên được tối ưu hóa.

LIỀU LƯỢNG

Viêm khớp dạng thấp

Liều khuyến cáo của Humira ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp ở người trưởng thành là liều đơn 40 mg adalimumab tiêm dưới da mỗi 2 tuần. Methotrexate nên được tiếp tục sử dụng trong quá trình điều trị với Humira.
Các glucocorticoid, salicylate, thuốc kháng viêm không steroid hoặc các thuốc giảm đau có thể được tiếp tục trong khi điều trị bằng Humira. Việc kết hợp với các thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh ngoài methotrexate xem trong phần Cảnh báo và Dược lực học.
Một số bệnh nhân có sự giảm đáp ứng trong đơn trị liệu có thể được lợi khi tăng liều thành 40 mg adalimumab mỗi tuần.
Những dữ liệu hiện có cho thấy những đáp ứng lâm sàng thường sẽ đạt được trong vòng 12 tuần điều trị. Việc tiếp tục điều trị nên được xem xét lại với những bệnh nhân không đáp ứng trong khoảng thời gian điều trị này.
Sự gián đoạn trong việc dùng thuốc
Việc ngưng thuốc có thể sẽ cần thiết, ví dụ trước phẫu thuật hoặc xảy ra một nhiễm trùng nặng.
Những dữ liệu hiện tại cho thấy việc dùng lại Humira sau khi gián đoạn 70 ngày hoặc lâu hơn dẫn đến cùng cường độ đáp ứng lâm sàng và hồ sơ an toàn tương tự như trước khi gián đoạn.

Viêm cột sống dính khớp, viêm khớp cột sống thể trục không có bằng chứng hình ảnh học về viêm cột sống dính khớp và viêm khớp vảy nến

Liều Humira khuyến cáo cho bệnh nhân viêm cột sống dính khớp, viêm khớp cột sống thể trục không có bằng chứng hình ảnh học của viêm cột sống dính khớp và bệnh nhân viêm khớp vảy nến là liều đơn 40 mg adalimumab tiêm dưới da mỗi 2 tuần.
Những dữ liệu hiện có cho thấy đáp ứng lâm sàng thường đạt được sau 12 tuần điều trị. Việc tiếp tục điều trị nên được xem xét lại ở các bệnh nhân không đáp ứng trong khoảng thời gian trên.

Vảy nến

Liều khuyến cáo của Humira ở bệnh nhân trưởng thành là liều khởi đầu 80 mg tiêm dưới da, tiếp theo là 40 mg tiêm dưới da mỗi 2 tuần bắt đầu 1 tuần sau liều đầu tiên.
Việc tiếp tục điều trị quá 16 tuần nên được xem xét lại một cách cẩn thận với những bệnh nhân không đáp ứng trong khoảng thời gian nói trên.
Ở bệnh nhân đáp ứng không đầy đủ sau 16 tuần có thể được hưởng lợi từ việc tăng tần suất liều lên 40 mg mỗi tuần. Lợi ích và nguy cơ của việc tiếp tục điều trị bằng Humira mỗi tuần nên được xem xét lại một cách cẩn thận ở những bệnh nhân đáp ứng không đủ sau khi tăng tần suất liều (xem mục Dược lực học). Nếu đáp ứng đầy đủ đạt được sau khi tăng tần suất liều, có thể giảm liều thành 40 mg mỗi 2 tuần.

Viêm tuyến mồ hôi mưng mủ

Liều được khuyến cáo cho liệu trình điều trị với Humira ở bệnh nhân trưởng thành bị viêm tuyến mồ hôi mưng mủ là 160 mg vào Ngày 1 (4 liều 40 mg tiêm vào một ngày hoặc hai liều 40 mg mỗi ngày trong vòng hai ngày liên tiếp), theo sau bởi liều 80 mg 2 tuần sau vào Ngày 15 (2 liều 40 mg tiêm trong một ngày). Hai tuần sau (Ngày 29) tiếp tục với một liều 40 mg mỗi tuần. Kháng sinh có thể được tiếp tục dùng trong khi điều trị bằng Humira nếu cần thiết. Bệnh nhân được khuyến cáo nên sử dụng dung dịch sát khuẩn ngoài da trên vùng da bị viêm tuyến mồ hôi mưng mủ hàng ngày trong quá trình điều trị với Humira.
Việc tiếp tục điều trị quá 12 tuần nên được xem xét lại một cách cẩn thận ở bệnh nhân không có sự cải thiện trong khoảng thời gian này.
Nếu việc điều trị cần gián đoạn, Humira liều 40 mg mỗi tuần có thể được sử dụng lại (xem mục Dược lực học).
Lợi ích và nguy cơ của liệu trình điều trị lâu dài liên tục nên được định kỳ đánh giá lại (xem mục Dược lực học).

Bệnh Crohn's

Liều điều trị ban đầu của Humira được khuyến cáo cho bệnh nhân trưởng thành bị bệnh Crohn hoạt động mức độ trung bình và nặng là 80 mg tại Tuần 0, tiếp tục với 40 mg ở Tuần 2. Trong trường hợp cần một đáp ứng nhanh hơn với việc điều trị, liệu trình 160 mg ở Tuần 0 (được sử dụng 4 mũi tiêm trong một ngày hoặc hai mũi tiêm mỗi ngày trong hai ngày liên tiếp), 80 mg ở Tuần 2, có thể được sử dụng với nhận thức rõ ràng là nguy cơ các biến cố bất lợi là cao hơn trong quá trình điều trị ban đầu.
Sau liều điều trị ban đầu, liều được khuyến cáo là 40 mg mỗi 2 tuần tiêm dưới da. Cách khác, nếu bệnh nhân đã ngưng điều trị với Humira và các dấu hiệu, triệu chứng của bệnh tái xuất hiện, Humira có thể được sử dụng lại. Có ít kinh nghiệm trong việc sử dụng lại Humira sau hơn 8 tuần kể từ liều trước đó.
Khi điều trị duy trì, corticosteroid có thể được giảm liều phù hợp với các hướng dẫn thực hành lâm sàng.
Một số bệnh nhân có giảm đáp ứng có thể được hưởng lợi từ việc tăng tần suất liều thành 40 mg Humira mỗi tuần.
Một số bệnh nhân không đáp ứng sau Tuần 4 có thể được hưởng lợi từ việc điều trị duy trì tiếp tục cho tới Tuần 12. Việc tiếp tục điều trị nên được xem xét lại một cách cẩn thận ở bệnh nhân không đáp ứng trong khoảng thời gian này.

Viêm loét đại tràng

Liều điều trị ban đầu của Humira được khuyến cáo cho bệnh nhân trưởng thành có bệnh viêm loét đại tràng mức độ trung bình và nặng là 160 mg ở Tuần 0 (liều có thể được sử dụng thành 4 mũi tiêm trong một ngày hoặc hai mũi tiêm mỗi ngày trong 2 ngày liên tiếp) và 80 mg ở Tuần 2. Sau liều điều trị ban đầu, liều được khuyến cáo là 40 mg mỗi hai tuần tiêm dưới da.
Trong khi điều trị duy trì, corticosteroid có thể được giảm liều tương thích với các hướng dẫn thực hành lâm sàng.
Một số bệnh nhân có giảm đáp ứng có thể được hưởng lợi từ việc tăng tần suất liều thành 40 mg Humira mỗi tuần.
Những dữ liệu hiện có cho thấy đáp ứng lâm sàng thường đạt được trong vòng 2-8 tuần điều trị. Việc điều trị với Humira không nên được tiếp tục ở những bệnh không không đáp ứng trong vòng thời gian này.

Viêm màng bồ đào

Liều khuyến cáo của Humira cho bệnh nhân trưởng thành bị viêm màng mạch nho là liều khởi đầu với 80 mg, tiếp tục với liều 40 mg mỗi 2 tuần bắt đầu một tuần sau liều đầu tiên. Kinh nghiệm về việc bắt đầu đơn trị với Humira còn hạn chế. Điều trị với Humira có thể được bắt đầu bằng việc kết hợp với corticosteroid và/hoặc với chất điều hòa miễn dịch không sinh học khác. Corticosteroid dùng đồng thời có thể được giảm liều tương thích với các hướng dẫn thực hành lâm sàng từ hai tuần sau khi bắt đầu điều trị với Humira.
Việc đánh giá lợi ích và nguy cơ của việc tiếp tục điều trị dài hạn được khuyến cáo thực hiện mỗi năm. (xem mục Dược lực học).

Người cao tuổi: Không cần hiệu chỉnh liều.
Suy giảm chức năng gan và/hoặc thận: Humira chưa được nghiên cứu trên nhóm bệnh nhân này. Chưa có khuyến cáo nào về liều được thiết lập.

Trẻ em

Viêm khớp tự phát tuổi thiếu niên
Viêm đa khớp tự phát tuổi thiếu niên từ 2 đến 12 tuổi:
Liều Humira khuyến cáo cho bệnh nhân viêm đa khớp tự phát thiếu niên, tuổi từ 2-12, là 24 mg/m2 diện tích bề mặt cơ thể cho đến liều đơn tối đa là 20 mg adalimumab (cho bệnh nhân từ 2-4 tuổi), 40 mg adalimumab (cho bệnh nhân từ 4-12 tuổi) mỗi 2 tuần, tiêm dưới da. Thể tích tiêm được chọn dựa vào chiều cao và cân nặng (bảng 22). Lọ 40 mg/0,8 ml cho trẻ em được dùng cho bệnh nhân cần liều ít hơn 40 mg.
- xem Bảng 22.

Viêm đa khớp tự phát thiếu niên từ 13 tuổi:
Bệnh nhân từ 13 tuổi, dùng liều 40 mg mỗi hai tuần, không quan tâm đến diện tích bề mặt cơ thể.
Những dữ liệu hiện có cho thấy đáp ứng lâm sàng đạt được trong vòng 12 tuần điều trị. Việc tiếp tục điều trị nên được xem xét lại một cách cẩn thận ở những bệnh nhân không đáp ứng trong khoảng thời gian này.
Việc dùng Humira ở bệnh nhân nhỏ hơn 2 tuổi cho chỉ định này là không phù hợp.

Viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận:
Liều Humira được khuyến cáo cho bệnh nhân viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận từ 6 tuổi trở lên là 24 mg/m2 diện tích bề mặt cơ thể cho đến liều đơn tối đa là 40 mg adalimumab mỗi hai tuần tiêm dưới da. Thể tích tiêm được lựa chọn dựa trên chiều cao và cân nặng của người bệnh (bảng 22).
Humira chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận nhỏ hơn 6 tuổi.

Vảy nến thể mảng trẻ em
Liều Humira được khuyến cáo là 0,8 mg/kg cân nặng (tối đa 40 mg mỗi liều) tiêm dưới da mỗi tuần cho hai liều đầu tiên và mỗi hai tuần sau đó. Việc tiếp tục điều trị hơn 16 tuần nên được xem xét một cách cẩn thận ở bệnh nhân không đáp ứng trong khoảng thời gian này.
Nếu việc tái điều trị với Humira được chỉ định, nên tuân thủ hướng dẫn nêu trên về liều và thời gian điều trị.
Sự an toàn của Humira ở bệnh nhân nhi có vảy nến thể mảng đã được đánh giá trong khoảng thời gian trung bình 13 tháng.
Việc dùng Humira cho chỉ định này ở bệnh nhân nhỏ hơn 4 tuổi là không phù hợp.
Thể tích tiêm được lựa chọn căn cứ vào cân nặng của bệnh nhân.
- xem Bảng 23.

Bệnh Crohn's trẻ em

Bệnh Crohn's ở trẻ em dưới 40 kg:
Liều ban đầu Humira được khuyến cáo cho đối tượng trẻ em với bệnh Crohn's hoạt động thể trung bình tới nặng là 40 mg ở Tuần 0, tiếp tục với 20 mg ở Tuần 2. Trường hợp cần có đáp ứng điều trị nhanh hơn, liệu trình 80 mg Tuần 0 (có thể dùng hai mũi tiêm một ngày), 40 mg ở Tuần 2 có thể được sử dụng, với nhận thức rõ là nguy cơ biến cố bất lợi có thể cao hơn ở liều ban đầu cao hơn.
Sau khi điều trị ban đầu, liều khuyến cáo là 20 mg tiêm dưới da mỗi 2 tuần. Một số bệnh nhân đáp ứng không đủ có thể được hưởng lợi từ việc tăng tần suất dùng thuốc thành 20 mg Humira mỗi tuần.
Bệnh Crohn's ở trẻ em ≥ 40kg:
Liều ban đầu Humira được khuyến cáo cho bệnh nhân nhi có bệnh Crohn's hoạt động thể trung bình và nặng là: 80 mg Tuần 0, tiếp tục với 40 mg Tuần 2. Trường hợp cần đáp ứng điều trị nhanh hơn, liệu trình 160 mg ở Tuần 0 (dùng 4 liều tiêm trong một ngày hoặc hai liều tiêm một ngày trong hai ngày liên tiếp), 80 mg Tuần 2 có thể được sử dụng, với nhận thức rõ ràng rằng nguy cơ các biến cố bất lợi có thể cao hơn ở liều ban đầu cao hơn.
Sau khi điều trị ban đầu, liều khuyến cáo là 40 mg mỗi hai tuần, tiêm dưới da. Một số bệnh nhân đáp ứng không đủ có thể được hưởng lợi từ việc tăng tần suất sử dụng lên 40 mg Humira mỗi tuần.
Việc điều trị liên tục nên được xem xét một cách cẩn thận ở những bệnh nhân không đáp ứng trước Tuần 12.
Việc dùng Humira cho chỉ định này ở bệnh nhân dưới 6 tuổi là không phù hợp.

Viêm tuyến mồ hôi mưng mủ trẻ em
An toàn và hiệu quả của Humira với bệnh viêm tuyến mồ hôi mưng mủ ở bệnh nhi tuổi 12 đến 17 tuổi chưa được thiết lập. Không có thông tin sẵn có. Việc sử dụng Humira cho chỉ định này ở bệnh nhi dưới 12 tuổi là không phù hợp.
Viêm loét đại tràng trẻ em
An toàn và hiệu quả của Humira ở bệnh nhi 4 – 17 tuổi chưa được thiết lập. Không có thông tin sẵn có. Việc dùng Humira cho chỉ định này ở bệnh nhi nhỏ hơn 4 tuổi là không phù hợp.
Viêm khớp vảy nến và viêm khớp cột sống thể trục bao gồm cả viêm cột sống dính khớp
Việc dùng Humira cho bệnh nhi cho chỉ định viêm cột sống dính khớp và viêm khớp vảy nến là không phù hợp.

Viêm màng bồ đào trẻ em
Sự an toàn và hiệu quả của Humira ở bệnh nhi từ 2-17 tuổi chưa được thiết lập. Không có dữ liệu sẵn có.

CÁCH DÙNG
Humira được tiêm dưới da. Hướng dẫn sử dụng đầy đủ được cung cấp trong tờ hướng dẫn sử dụng đi kèm.
Lọ 40 mg cho nhi khoa được sử dụng cho bệnh nhi cần liều ít hơn 40 mg.

Cảnh báo

Để cải thiện việc theo dõi dấu vết các chế phẩm sinh học điều trị, tên thương mại và số lô của sản phẩm được sử dụng nên được ghi chép rõ ràng.
Nhiễm trùng
Bệnh nhân dùng chất đối kháng TNF nhạy cảm hơn với những nhiễm trùng nghiêm trọng. Suy giảm chức năng phổi có thể tăng nguy cơ phát triển nhiễm trùng. Vì thế, bệnh nhân nên được giám sát chặt chẽ về tình trạng nhiễm trùng, gồm cả lao, trước, trong và sau điều trị với Humira. Vì việc thải trừ Humira có thể mất đến bốn tháng nên việc giám sát nên được tiếp tục trong suốt khoảng thời gian này.
Việc điều trị bằng Humira không nên được bắt đầu với bệnh nhân có nhiễm trùng thể hoạt động, bao gồm cả nhiễm trùng mạn tính hay khu trú cho tới khi nhiễm trùng được kiểm soát. Ở bệnh nhân đã phơi nhiễm với lao và bệnh nhân đi tới vùng có nguy cơ lao hoặc bệnh nấm cao như nhiễm histoplasma, coccidioides hoặc blastomyces, nguy cơ và lợi ích của việc điều trị bằng Humira nên được xem xét trước khi bắt đầu điều trị (xem Các nhiễm trùng cơ hội khác).
Bệnh nhân phát triển một nhiễm trùng mới khi đang điều trị với Humira nên được giám sát chặt chẽ và trải qua một đánh giá chẩn đoán tổng thể. Việc dùng Humira nên được dừng lại nếu một bệnh nhân phát triển một nhiễm trùng mới nghiêm trọng hoặc nhiễm trùng huyết và một liệu trình kháng sinh hay kháng nấm nên được bắt đầu cho tới khi kiểm soát được nhiễm trùng. Bác sĩ điều trị nên thăm khám cẩn thận khi xem xét việc dùng Humira ở bệnh nhân có tiền sử nhiễm trùng tái lại hoặc có tình trạng bệnh lý đi kèm mà làm bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng, bao gồm cả việc sử dụng đồng thời các thuốc ức chế miễn dịch.
Nhiễm trùng nặng
Nhiễm trùng nặng, bao gồm cả nhiễm trùng huyết, do vi khuẩn, trực khuẩn, nấm thâm nhiễm, ký sinh trùng, virus hay những nhiễm trùng cơ hội khác như listeria, legionella và pneumocystis đã được báo cáo ở những bệnh nhân sử dụng Humira.
Những nhiễm trùng nặng khác thấy trong những thử nghiệm lâm sàng bao gồm, viêm phổi, viêm thận bể thận, viêm khớp nhiễm khuẩn và nhiễm khuẩn máu. Nhập viện và những kết cục tử vong khác liên quan đến nhiễm trùng đã được báo cáo.
Lao
Lao, bao gồm cả lao tái hoạt động và lao mới, đã được báo cáo ở những bệnh nhân sử dụng Humira. Những báo cáo này gồm những ca lao phổi và lao ngoài phổi (rải rác).
Trước khi điều trị với Humira, tất cả bệnh nhân nên được đánh giá về nhiễm trùng lao cả thể hoạt động và thể tiềm ẩn (“latent”). Việc đánh giá này bao gồm một sự đánh giá y khoa chi tiết về tiền sử lao, hoặc phơi nhiễm trước đó với người có lao đang hoạt động và việc sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch hiện tại hay trước đó. Các xét nghiệm sàng lọc phù hợp (xét nghiệm tuberculin và X- quang) nên được thực hiện ở tất cả các bệnh nhân (có thể áp dụng các khuyến cáo tại chỗ). Việc tiến hành và kết quả của các xét nghiệm này được khuyến cáo nên ghi chép trong thẻ cảnh báo bệnh nhân. Người kê đơn được nhắc về nguy cơ kết quả xét nghiệm turberculin âm tính giả, đặc biệt ở bệnh nhân bệnh nặng hoặc bị suy giảm miễn dịch.
Nếu được chẩn đoán lao thể hoạt động, việc dùng Humira không nên bắt đầu (xem mục Chống chỉ định).
Trong tất cả các tình huống được miêu tả ở dưới, cân bằng lợi ích/nguy cơ nên được xem xét một cách rất cẩn thận.
Nếu nghi ngờ lao tiềm ẩn, bác sĩ có kinh nghiệm trong việc điều trị lao nên được tham vấn.
Nếu chẩn đoán có lao tiềm ẩn, việc điều trị thích hợp nên được bắt đầu với điều trị dự phòng lao trước khi bắt đầu điều trị với Humira, tương thích với các khuyến cáo tại địa phương.
Việc sử dụng liệu pháp kháng lao dự phòng nên được xem xét trước khi bắt đầu dùng Humira ở bệnh nhân với vài yếu tố hoặc yếu tố nguy cơ có ý nghĩa với lao mặc dù xét nghiệm lao âm tính và ở những bệnh nhân có tiền sử lao tiềm ẩn hoặc lao hoạt động mà không thể xác nhận việc đã được điều trị lao đủ liệu trình.
Dù được điều trị dự phòng với lao, nhiều ca lao tái phát đã xảy ra ở bệnh nhân điều trị với Humira. Một số bệnh nhân đã được điều trị thành công với lao hoạt động đã tái mắc lao trong khi được điều trị với Humira.
Bệnh nhân nên được hướng dẫn tìm những lời khuyên y khoa nếu dấu hiệu/triệu chứng gợi ý nhiễm trùng lao (ví dụ: ho lâu, hao mòn/ giảm cân, sốt nhẹ, lơ đãng) xảy ra trong hoặc sau khi điều trị với Humira.
Các nhiễm trùng cơ hội khác
Nhiễm trùng cơ hội, bao gồm cả nhiễm nấm xâm lấn đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân sử dụng Humira. Những nhiễm trùng này không được nhận thấy một cách thống nhất ở những bệnh nhân dùng các thuốc kháng TNF và điều này dẫn đến việc trì hoãn trong việc sử dụng liệu trình phù hợp, đôi khi còn dẫn đến những kết cục gây chết người.
Những bệnh nhân phát triển dấu hiệu và triệu chứng như sốt, mệt mỏi, giảm cân, ra mồ hôi, ho, khó thở, và/hoặc thâm nhiễm phổi hoặc những bệnh toàn thân nghiêm trọng khác có hoặc không có sốc đi kèm, nên nghi ngờ một nhiễm nấm xâm lấn và việc sử dụng Humira nên được dừng sớm. Việc chẩn đoán và sử dụng liệu pháp kháng nấm theo kinh nghiệm ở những bệnh nhân này nên có sự tham vấn với bác sĩ điều trị có kinh nghiệm trong việc chăm sóc bệnh nhân nhiễm nấm xâm lấn.
Viêm gan siêu vi B tái hoạt động
Sự tái kích hoạt viêm gan siêu vi B đã xảy ra ở những bệnh nhân sử dụng thuốc kháng TNF, bao gồm cả Humira, ở những bệnh nhân mang virus mạn tính (kháng thể bề mặt dương tính). Một số trường hợp đã có kết cục gây chết người. Bệnh nhân nên được xét nghiệm nhiễm virus viêm gan B trước khi bắt đầu điều trị với Humira. Với bệnh nhân, có xét nghiệm virus viêm gan B dương tính, việc tham vấn với bác sĩ có kinh nghiệm trong việc điều trị viêm gan B là được khuyến cáo.
Những người mang virus viêm gan B cần điều trị với Humira nên được giám sát chặt chẽ ở những dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng viêm gan B hoạt động trong suốt liệu trình và nhiều tháng sau khi kết thúc điều trị. Dữ liệu đầy đủ từ việc điều trị những bệnh nhân mang virus viêm gan B bằng liệu pháp kháng virus kết hợp cùng với liệu pháp kháng TNF để ngăn chặn sự tái hoạt virus viêm gan B không có. Ở bệnh nhân đã có sự tái hoạt virus viêm gan B, nên ngừng Humira và một liệu trình kháng virus có hiệu lực cùng điều trị hỗ trợ phù hợp nên được bắt đầu.
Các biến cố thần kinh
Các thuốc kháng TNF, gồm cả Humira, có liên quan tới những trường hợp hiếm những khởi phát mới hoặc tăng nặng các triệu chứng lâm sàng và/hoặc bằng chứng hình ảnh học của bệnh hủy myelin hệ thống thần kinh trung ương bao gồm xơ cứng bì hệ thống và viêm dây thần kinh thị giác và bệnh thoái hóa myelin ngoại biên, bao gồm hội chứng Guillain-Barre. Người kê đơn nên xem xét cẩn thận trong việc sử dụng Humira ở bệnh nhân đã có hoặc mới khởi phát những rối loạn thoái hóa myelin ở hệ thần kinh trung ương và ngoại biên, việc dừng sử dụng Humira nên được xem xét nếu những rối loạn này xuất hiện. Có sự liên quan được biết đến giữa viêm màng bồ đào trung gian và rối loạn thoái hóa myelin trung ương. Đánh giá chức năng thần kinh nên được thực hiện ở những bệnh nhân viêm màng bồ đào trung gian trước khi bắt đầu điều trị với Humira và định kỳ trong suốt quá trình điều trị để đánh giá những rối loạn thoái hóa myelin trung ương đã tồn tại trước đó hoặc đang phát triển.
Phản ứng dị ứng
Các phản ứng dị ứng nghiêm trọng liên quan đến Humira là hiếm trong các thử nghiệm lâm sàng. Những phản ứng dị ứng không nghiêm trọng liên quan đến Humira là không thường gặp trong các thử nghiệm lâm sàng. Những báo cáo về những phản ứng dị ứng nghiêm trọng gồm phản ứng phản vệ đã được ghi nhận sau khi sử dụng Humira. Nếu một phản ứng phản vệ hoặc phản ứng dị ứng nghiêm trọng khác xuất hiện, việc dùng Humira nên được dừng ngay lập tức và các liệu pháp thích hợp nên được bắt đầu.
Ức chế miễn dịch
Trong một nghiên cứu có 64 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được điều trị với Humira, không thấy có bằng chứng về sự giảm các phản ứng tăng nhạy cảm dạng chậm, giảm lượng globulin miễn dịch hoặc thay đổi trong sự liệt kê các tế bào phản ứng lại kích thích tế bào T, tế bào B, tế bào diệt tự nhiên, đơn bào, đại thực bào và bạch cầu trung tính.
Các bệnh ác tính và rối loạn tăng sinh bạch cầu lympho
Trong những phần đối chứng của các thử nghiệm lâm sàng với các chất đối kháng TNF, nhiều ca ác tính, bao gồm cả u lympho đã được quan sát thấy ở bệnh nhân nhóm dùng các chất ức chế TNF hơn so với bệnh nhân trong nhóm đối chứng. Tuy nhiên, việc xảy ra này hiếm. Trong bối cảnh sau lưu hành, những trường hợp ung thư bạch cầu đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị bằng chất đối kháng TNF. Có sự tăng nguy cơ nền cho u lympho và bệnh bạch cầu ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có phản ứng viêm hoạt động mạnh, lâu dài, điều này làm phức tạp thêm sự ước tính nguy cơ. Với những kiến thức hiện tại, nguy cơ có thể trong việc phát triển bệnh u lympho, bệnh bạch cầu và những bệnh ác tính khác ở bệnh nhân điều trị với chất đối kháng TNF là không thể loại trừ.
Bệnh ác tính, một số trong đó gây chết người, đã được báo cáo ở bệnh nhân nhi, thiếu niên, và người trẻ tuổi (cho tới 22 tuổi) được điều trị với chất đối kháng TNF (bắt đầu điều trị khi không quá 18 tuổi), bao gồm cả adalimumab trong giai đoạn sau lưu hành. Khoảng nửa số các trường hợp là u lympho. Những trường hợp khác đại diện cho nhiều bệnh ác tính khác nhau và bao gồm những bệnh ác tính hiếm gặp, thường có liên quan đến việc ức chế hệ miễn dịch. Nguy cơ phát triển các bệnh lý ác tính ở trẻ em và vị thành niên được điều trị với chất đối kháng TNF là không thể loại trừ.
Một số hiếm các trường hợp ung thư hạch tế bào lympho T gan lách sau lưu hành đã được xác định ở bệnh nhân điều trị bằng adalimumab. Loại u lympho T hiếm gặp này có một quá trình diễn tiến bệnh rất nguy kịch và thường gây tử vong. Một vài trường hợp trong số các ung thư hạch tế bào lympho T gan lách điều trị với Humira xảy ra ở bệnh nhân trẻ, được điều trị với azathioprine hoặc 6-mercaptopurine cho bệnh viêm ruột. Nguy cơ tiềm tàng với kết hợp azathioprine hoặc 6-mercaptopurne và Humira nên được xem xét cẩn thận. Nguy cơ phát triển bệnh ung thư hạch tế bào lympho T gan lách ở bệnh nhân điều trị với Humira không thể được loại trừ (xem mục Tác dụng ngoại ý).Chưa có nghiên cứu nào có sự tham gia của những bệnh nhân có tiền sử bệnh ác tính hoặc những bệnh nhân được điều trị bằng Humira tiếp tục sau sự phát triển của một bệnh mạn tính. Do đó, cần thận trọng xem xét việc sử dụng Humira trong điều trị ở những bệnh nhân này (xem mục Tác dụng ngoại ý).
Tất cả bệnh nhân và đặc biệt bệnh nhân có tiền sử sử dụng liệu pháp ức chế miễn dịch kéo dài, hoặc bệnh nhân vảy nến có tiền sử điều trị bằng PUVA nói riêng, nên được thăm khám để xác định ung thư da melanoma, trước và trong khi điều trị với Humira. Melanoma và ung thư tế bào Merkel đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị với các chất đối kháng TNF, bao gồm cả adalimumab (xem mục Tác dụng ngoại ý).
Trong một nghiên cứu thăm dò đánh giá việc sử dụng của các chất ức chế TNF khác, infliximab, ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) trung bình đến nặng, nhiều bệnh mạn tính, hầu hết ở phổi, đầu và cổ, được báo cáo ở bệnh nhân điều trị bằng infliximab nhiều hơn so với bệnh nhân nhóm đối chứng ở tất cả các bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá nhiều. Vì vậy, cần thận trọng trong việc sử dụng bất cứ một chất đối kháng TNF nào ở bệnh nhân COPD, cũng như những bệnh nhân với tăng nguy cơ bệnh lý ác tính do hút thuốc lá nhiều.
Với những dữ liệu hiện tại chưa cho biết liệu việc điều trị với adalimumab có ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển loạn sản hoặc ung thư đại tràng. Tất cả các bệnh nhân viêm loét đại tràng, những người có tăng nguy cơ loạn sản hoặc ung thư đại tràng (ví dụ, bệnh nhân viêm loét đại tràng lâu dài hoặc viêm xơ đường mật nguyên phát), hoặc người có tiền sử loạn sản hay ung thư đại tràng trước đó nên được sàng lọc loạn sản đều đặn trước khi dùng thuốc và trong suốt quá trình diễn tiến bệnh. Việc đánh giá nên gồm cả việc soi đại tràng và sinh thiết theo khuyến cáo cơ sở.
Các phản ứng huyết học
Một số hiếm các báo cáo về giảm ba dòng tế bào máu, bao gồm thiếu máu không tái tạo được báo cáo với các chất đối kháng TNF. Biến cố có hại ở hệ huyết học, bao gồm việc giảm các dòng tế bào máu có ý nghĩa y học (ví dụ: giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu) đã được báo cáo với Humira. Tất cả bệnh nhân nên được khuyên tìm kiếm sự chăm sóc y khoa nếu có các dấu hiệu và triệu chứng gợi ý sự loạn tạo máu (sốt kéo dài, bầm, chảy máu, xanh xao) khi dùng Humira. Việc ngừng liệu pháp Humira nên được xem xét với bệnh nhân rối loạn huyết học được xác định.
Tiêm phòng
Sự đáp ứng kháng thể tương tự với vaccin phế cầu 23-valent tiêu chuẩn và vaccin virus cúm 3-valent được quan sát trong một nghiên cứu 226 bệnh nhân trưởng thành có viêm khớp dạng thấp được điều trị với adalimumab hoặc giả dược. Không có dữ liệu sẵn có về việc truyền bệnh thứ phát do vaccin sống ở bệnh nhân dùng Humira.
Bệnh nhi được khuyến cáo, nếu có thể, cập nhật tất cả các mũi tiêm chủng tương thích với hướng dẫn tiêm chủng hiện hành trước khi điều trị bằng Humira.
Bệnh nhân điều trị bằng Humira có thể tiêm chủng đồng thời, ngoại trừ vaccin sống. Việc tiêm chủng vaccin sống với trẻ sơ sinh đã phơi nhiễm với adalimumab trong tử cung không được khuyến cáo trong vòng năm tháng sau liều tiêm adalimumab cuối cùng của mẹ trong thời kỳ mang thai.
Suy tim sung huyết
Trong một thử nghiệm lâm sàng với chất kháng TNF khác quan sát thấy sự làm nặng thêm suy tim sung huyết và tăng tỷ lệ tử vong do suy tim sung huyết. Nhiều ca nặng thêm tình trạng suy tim sung huyết đã được báo cáo ở bệnh nhân sử dụng Humira. Humira nên được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân suy tim nhẹ (phân loại NYHA I/II). Humira chống chỉ định trong suy tim sung huyết trung bình đến nặng (xem mục Chống chỉ định). Điều trị với Humira phải được ngưng ở bệnh nhân phát triển triệu chứng mới hoặc xấu đi của suy tim sung huyết.
Các bệnh lý tự miễn
Việc điều trị với Humira có thể dẫn đến sự hình thành các kháng thể tự miễn. Tác động của việc điều trị dài hạn với Humira với sự phát triển của bệnh tự miễn là chưa được biết. Nếu một bệnh nhân phát triển những triệu chứng gợi ý hội chứng giống lupus sau khi điều trị với Humira và dương tính với kháng thể kháng DNA chuỗi xoắn kép, việc điều trị thêm với Humira không nên được tiếp tục (xem mục Tác dụng ngoại ý).
Việc dùng đồng thời với các thuốc sinh học chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh (bDMARDs) hoặc các chất đối kháng TNF
Những nhiễm trùng nghiêm trọng được thấy trong các nghiên cứu lâm sàng có sử dụng đồng thời anakinra và một chất đối kháng TNF khác, etanercept, không mang thêm lợi ích lâm sàng nào so với việc dùng etanercept đơn độc. Vì bản chất các biến cố bất lợi được thấy khi kết hợp etanercept và anakinra, những độc tính tương tự có thể do sự kết hợp anakinra và các chất đối kháng TNF khác. Vì vậy, sự kết hợp adalimumab và anakinra không được khuyến cáo (xem mục Tương tác).
Việc dùng đồng thời adalimumab với các DMARDs sinh học khác (anakinra và abatacept) hoặc các chất đối kháng TNF khác không được khuyến cáo dựa trên việc có thể tăng nguy cơ nhiễm trùng, bao gồm những nhiễm trùng nghiêm trọng và những tương tác dược lý tiềm tàng khác (xem mục Tương tác).
Phẫu thuật
Những kinh nghiệm về sự an toàn của các quy trình phẫu thuật trên bệnh nhân sử dụng Humira còn hạn chế. Thời gian bán thải dài của adalimumab nên được xem xét nếu lên kế hoạch phẫu thuật. Một bệnh nhân cần phẫu thuật khi đang điều trị với Humira nên được giám sát nhiễm trùng một cách chặt chẽ cùng với những hành động phù hợp. Kinh nghiệm an toàn ở bệnh nhân thay khớp nhân tạo khi dùng Humira còn hạn chế.
Sự tắc ruột non
Thất bại đáp ứng với điều trị bệnh Crohn có thể biểu thị sự tồn tại của hẹp xơ hóa cố định cần phẫu thuật. Dữ liệu hiện có cho thấy Humira không làm nặng hơn hoặc gây tắc ruột.
Người già
Tần suất những nhiễm trùng nghiêm trọng ở bệnh nhân điều trị với Humira trên 65 tuổi (3,7%) là cao hơn so với những bệnh nhân dưới 65 tuổi (1,5%). Một vài trong số đó có kết cục tử vong. Khi điều trị bệnh nhân lớn tuổi nên có sự chú ý đặc biệt, liên quan đến nguy cơ nhiễm trùng.
Bệnh nhi
Xem mục Tiêm phòng ở trên.
Ảnh hưởng lên khả năng lái xe và sử dụng máy móc:
Humira có thể có ảnh hưởng nhỏ lên khả năng lái xe và sử dụng máy móc. Chóng mặt và suy giảm thị giác có thể xảy ra sau khi dùng Humira (xem mục Tác dụng ngoại ý).

Quá Liều

Không một độc tính giới hạn liều nào được quan sát trong những thử nghiệm lâm sàng. Mức liều cao nhất được đánh giá là chế độ đa liều tiêm tĩnh mạch 10 mg/kg, cao hơn mức liều khuyến cáo xấp xỉ 15 lần.

Chống chỉ định

Quá mẫn với hoạt chất hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Lao thể hoạt động hoặc các nhiễm trùng nghiêm trọng khác như: nhiễm trùng huyết hoặc nhiễm trùng cơ hội (xem phần Cảnh báo).
Suy tim mức độ trung bình cho tới nặng (phân loại NYHA mức III/IV) (xem phần Cảnh báo).

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản/Sự tránh thai ở nam và nữ
Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản được khuyến cáo mạnh mẽ nên có biện pháp ngừa thai đầy đủ để ngăn sự mang thai và tiếp tục dùng ít nhất năm tháng sau lần điều trị cuối cùng bằng Humira.
Sự mang thai
Những dữ liệu lâm sàng về sự phơi nhiễm với Humira trong thời kỳ mang thai còn hạn chế.
Trong một nghiên cứu độc tính đang diễn tiến, thực hiện trên khỉ, không thấy dấu hiệu của độc tính trên mẹ, độc tính trên phôi và hoạt tính gây quái thai. Các dữ liệu tiền lâm sàng trên độc tính sau khi sinh của adalimumab không có (xem mục An toàn tiền lâm sàng).
Do tính chất ức chế TNFα, adalimumab dùng trong thời kỳ mang thai có thể ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch bình thường ở trẻ mới sinh. Việc dùng adalimumab không được khuyến cáo trong thời kỳ mang thai.
Adalimumab có thể đi qua hàng rào nhau thai vào huyết thanh của trẻ sơ sinh nếu mẹ được điều trị với adalimumab trong thời kỳ mang thai. Do đó, những trẻ sơ sinh này có thể có nguy cơ nhiễm trùng. Việc dùng vaccin sống cho trẻ sơ sinh phơi nhiễm với adalimumab trong tử cung không được khuyến cáo trong vòng 5 tháng sau liều tiêm adalimumab cuối cùng của mẹ trong thời kỳ mang thai.
Cho con bú
Việc adalimumab có bài tiết trong sữa người hay được hấp thu vào hệ thống tuần hoàn sau khi sử dụng thuốc hay không thì không được rõ.
Tuy nhiên, vì globulin miễn dịch người được bài tiết trong sữa nên phụ nữ không nên cho con bú trong vòng ít nhất năm tháng sau lần điều trị cuối cùng bằng Humira.
Sự thụ thai
Không có dữ liệu tiền lâm sàng về ảnh hưởng của adalimumab lên sự thụ thai.

Tương tác

HUMIRA được nghiên cứu trong bệnh viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp tự phát tuổi thanh thiếu niên và viêm khớp vảy nến, bệnh nhân dùng HUMIRA đơn trị liệu hoặc dùng cùng với methotrexate. Sự hình thành kháng thể thì thấp hơn khi HUMIRA được sử dụng cùng với methotrexate so với dùng đơn trị liệu. Việc dùng Humira không có methotrexate dẫn đến tăng sự hình thành kháng thể, tăng thải trừ, và giảm tác dụng của adalimumab (xem mục Dược lực học).
Sự kết hợp HUMIRA và anakinra không được khuyến cáo (xem mục Cảnh báo "Việc dùng cùng với các DMARDs sinh học hoặc các chất đối kháng TNF").
Việc kết hợp HUMIRA và abatacept không được khuyến cáo (xem mục Cảnh báo "Việc dùng đồng thời với các DMARDs sinh học hoặc các chất đối kháng TNF").

Tương kỵ

Do các nghiên cứu về tính tương kỵ còn thiếu, thuốc này không được pha trộn với các thuốc khác.

Tác dụng ngoại ý

Tóm tắt tính an toàn
Humira được nghiên cứu trên 9506 bệnh nhân trong những thử nghiệm then chốt, nhãn mở, có kiểm soát cho tới 60 tháng hoặc hơn. Những thử nghiệm bao gồm những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp ngắn hạn hoặc mạn tính, viêm khớp tự phát thiếu niên (viêm đa khớp tự phát tuổi thiếu niên và viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận) cùng với viêm trục đốt sống (viêm cột sống dính khớp và viêm trục đốt sống không có bằng chứng hình ảnh học của viêm cột sống dính khớp), viêm khớp vảy nến, bệnh Crohn's, viêm loét đại tràng, vảy nến, viêm tuyến mồ hôi mưng mủ và viêm màng bồ đào. Những nghiên cứu được kiểm soát chặt chẽ bao gồm 6089 bệnh nhân sử dụng Humira và 3801 bệnh nhân dùng giả dược hoặc thuốc so sánh có hoạt tính trong suốt thời gian kiểm soát.
Tỷ lệ bệnh nhân ngưng điều trị do biến cố bất lợi trong suốt phần được kiểm soát, mù đôi của những nghiên cứu then chốt là 5,9% ở những bệnh nhân dùng Humira và 54% ở những bệnh nhân được điều trị kiểm soát.
Biến cố bất lợi phổ biến nhất được báo cáo là nhiễm trùng (như viêm mũi họng, viêm đường hô hấp trên và viêm xoang), nhiễm trùng vị trí tiêm (ban đỏ, ngứa, xuất huyết, đau hay sưng), đau đầu và đau cơ xương khớp.
Những biến cố bất lợi nghiêm trọng đã được báo cáo với Humira. Các chất đối kháng TNF, như Humira ảnh hưởng đến hệ miễn dịch và việc dùng thuốc có thể ảnh hưởng đến sự bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng và ung thư.
Những nhiễm trùng gây tử vong và đe dọa tính mạng (gồm nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng cơ hội và lao), sự tái hoạt động virus viêm gan B và nhiều bệnh ác tính khác (gồm ung thư bạch cầu, ung thư lympho và ung thư hạch tế bào lympho T gan lách) đã được báo cáo với việc dùng Humira.
Các phản ứng tự miễn, thần kinh và huyết học nghiêm trọng đã được báo cáo. Có những báo cáo về giảm ba dòng tế bào máu, thiếu máu bất sản, biến cố thoái hóa myelin trung ương và ngoại biên và những báo cáo về lupus, những tình trạng liên quan đến lupus và hội chứng Stevens-Johnson.
Bệnh nhi
Tác dụng không mong muốn ở bệnh nhi
Nói chung, các biến cố bất lợi ở bệnh nhi tương tự về tần suất và loại biến cố như được thấy ở bệnh nhân người lớn.
Bảng danh sách các tác dụng ngoại ý:
Danh sách của những tác dụng ngoại ý từ những thử nghiệm lâm sàng và sau khi thuốc lưu hành, được trình bày theo nhóm hệ thống cơ quan và tần suất xuất hiện trong Bảng 24 dưới đây: Rất phổ biến (≥ 1/10), phổ biến (≥ 1/100 tới <1/10), không phổ biến (≥ 1/1000 tới < 1/100), hiếm gặp ( ≥1/10.000 tới <1/1.000) và không biết (không thể được ước tính từ những dữ liệu hiện có). Trong mỗi nhóm tần suất, những tác dụng không mong muốn được sắp xếp theo thứ tự giảm dần của mức độ nghiêm trọng. Những tác dụng phụ có tần suất cao nhất trong các chỉ định khác nhau đã được thêm vào. Dấu * trong cột Phân loại hệ thống cơ quan cho biết thông tin thêm có thể được tìm thấy ở mục Chống chỉ định, Cảnh báo và Tác dụng ngoại ý.
- xem Bảng 24.

Viêm tuyến mồ hôi mưng mủ
Hồ sơ về tính an toàn ở những bệnh nhân viêm tuyến mồ hôi mưng mủ điều trị bằng Humira mỗi tuần thì giống với hồ sơ về tính an toàn đã biết của Humira.
Viêm màng bồ đào
Hồ sơ an toàn ở những bệnh nhân viêm màng bồ đào điều trị với Humira mỗi hai tuần thì giống với với hồ sơ về tính an toàn đã biết của Humira.
Miêu tả một số phản ứng phụ chọn lọc
Phản ứng tại nơi tiêm
Trong những nghiên cứu then chốt đối chứng ở người lớn và trẻ em, 12,9% số bệnh nhân điều trị với Humira xuất hiện phản ứng tại nơi tiêm (đỏ và/hoặc ngứa, xuất huyết, đau và sưng), so với 7,2% những bệnh nhân dùng giả dược hoặc chất đối chứng có hoạt tính. Phản ứng tại nơi tiêm nói chung không đòi hỏi phải ngưng thuốc.
Nhiễm trùng
Trong những nghiên cứu then chốt đối chứng ở người lớn và trẻ em, tỷ lệ nhiễm trùng là 1,51 trên bệnh nhân năm trong nhóm được điều trị với Humira và 1,46 trên bệnh nhân năm ở nhóm giả dược và nhóm đối chứng có hoạt tính. Những nhiễm trùng gồm chủ yếu nhiễm trùng mũi họng, nhiễm trùng hô hấp trên và viêm xoang. Hầu hết các bệnh nhân tiếp tục điều trị bằng Humira sau khi nhiễm trùng được giải quyết.
Tỷ lệ mắc phải nhiễm trùng nghiêm trọng là 0,04 trên bệnh nhân năm ở nhóm điều trị với Humira và 0,03 trên bệnh nhân năm ở nhóm giả dược và chất đối chứng có hoạt tính.
Trong những nghiên cứu đối chứng và nhãn mở ở bệnh nhân người lớn và nhi với Humira, những nhiễm trùng nặng (gồm, những nhiễm trùng gây tử vong, thường hiếm xảy ra) đã được báo cáo, bao gồm những báo cáo về lao (gồm lao kê, lao ngoài phổi) và nhiễm trùng cơ hội xâm lấn (ví dụ nhiễm histoplama ngoài phổi và lan tỏa, nhiễm blastomycose, nhiễm coccidioides, viêm phổi do nấm Pneumocystis carinii, nhiễm nấm Candida, nhiễm nấm Aspergillus, nhiễm Listeria). Hầu hết các trường hợp lao xảy ra trong vòng 8 tuần đầu tiên sau khi khởi trị và có thể phản ánh sự tái phát của bệnh tiềm tàng trước đó.
Các bệnh lý ác tính và rối loạn tăng sinh tế bào lympho
Không có ca bệnh lý ác tính nào được quan sát thấy ở 249 bệnh nhi đã phơi nhiễm trong 655,6 năm-bệnh trong suốt những thử nghiệm của Humira trên bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên (viêm đa khớp thiếu niên tự phát và viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận). Ngoài ra, không có ca bệnh lý ác tính nào được quan sát thấy trên 192 bệnh nhi có phơi nhiễm trong 498,1 năm-bệnh trong suốt những thử nghiệm của Humira trên bệnh nhi có bệnh Crohn's. Không có trường hợp bệnh lý ác tính nào được quan sát thấy ở 77 bệnh nhi đã phơi nhiễm trong 80,0 năm-bệnh trong suốt một thử nghiệm của Humira trên bệnh nhi có bệnh vảy nến thể mảng mạn tính.
Trong suốt những phần đối chứng của những nghiên cứu chủ chốt của Humira ở người trưởng thành trong vòng ít nhất 12 tuần ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động thể trung bình đến nặng, viêm cột sống dính khớp, viêm trục đốt sống không có bằng chứng hình ảnh học của viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vảy nến, vảy nến, viêm tuyến mồ hôi dạng mủ, bệnh Crohn's, viêm loét đại tràng và viêm màng bồ đào, bệnh lý ác tính, trừ u lympho và ung thư da không melanoma, được quan sát thấy ở tỷ lệ (95% khoảng tin cậy) 6,8 (4,4; 10,5) trên mỗi 1000 bệnh nhân năm trong số 5291 bệnh nhân được điều trị với Humira so với tỷ lệ  6,3 (3,4; 11,8) trên 1000 bệnh nhân năm trong số 3444 bệnh nhân nhóm đối chứng (thời gian điều trị trung bình là 4,0 tháng với Humira và 3,8 tháng cho bệnh nhân nhóm kiểm soát. Tỷ lệ (95% khoảng tin cậy) của ung thư da không melanoma là 8,8 (6,0; 13,0) trên 1000 bệnh nhân nằm trong số bệnh nhân được điều trị với Humira và 3,2 (1,3; 7,6) trên 1000 bệnh nhân nằm trong bệnh nhân nhóm đối chứng. Trong số những ung thư này, ung thư biểu mô tế bào vảy xảy ra với tỷ lệ (95% khoảng tin cậy) 2,7 (1,4; 5,4) trên 1000 bệnh nhân nằm trong nhóm bệnh nhân điều trị với Humira và 0,6 (0,1; 4,5) trên 1000 bệnh nhân nằm trong nhóm bệnh nhân đối chứng. Tỷ lệ (95% khoảng tin cậy) của u lympho là 0,7 (0,2; 2,7) trên 1000 bệnh nhân nằm trong nhóm bệnh nhân điều trị với Humira và 0,6 (0,1; 4,5) trên 1000 bệnh nhân nằm trong nhóm bệnh nhân nhóm đối chứng.
Khi kết hợp những phần đối chứng của những thử nghiệm này và những nghiên cứu mở rộng nhãn mở đang diễn ra và đã hoàn tất với thời gian điều trị trung bình xấp xỉ 3,3 năm gồm 6427 bệnh nhân và liệu trình trên 26439 năm-bệnh nhân, tỷ lệ quan sát được ở các ca bệnh ác tính, ngoại trừ u lympho và ung thư da không melanoma là xấp xỉ 8,5 trên 1000 năm-bệnh nhân . Tỷ lệ quan sát của ung thư da không melanoma là xấp xỉ 9,6 trên 1000 bệnh nhân năm và tỷ lệ quan sát của u lympho là xấp xỉ 1,3 trên 1000 năm-bệnh nhân.
Kinh nghiệm sau lưu hành từ tháng 1/2003 đến tháng 12/2010, chủ yếu ở nhóm bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, tỷ lệ bệnh ác tính được báo cáo là xấp xỉ 2,7 trên 1000 bệnh nhân năm. Tỷ lệ ung thư da không melanoma và u lympho được báo cáo là tương ứng xấp xỉ 0,2 và 0,3 trên 1000 bệnh nhân năm (xem mục Cảnh báo).
Một số hiếm các trường hợp sau lưu hành ung thư hạch tế bào lympho T gan lách đã được báo cáo ở bệnh nhân điều trị với adalimumab (xem mục Cảnh báo).
Tự kháng thể
Những bệnh nhân có mẫu huyết thanh xét nghiệm tìm kháng thể tự miễn ở nhiều điểm thời gian khác nhau trong những nghiên cứu I-V về viêm khớp dạng thấp. Trong những thử nghiệm này, 11,9% số bệnh nhân được điều trị với Humira và 8,1% với giả dược và chất đối chứng – những bệnh nhân được điều trị mà có chuẩn độ kháng thể kháng nhân âm tính ở mức ban đầu được báo cáo có chuẩn độ dương tính ở Tuần 24. 2 trong số 3441 bệnh nhân được điều trị với Humira trong số tất cả những nghiên cứu viêm khớp dạng thấp và viêm khớp vảy nến đã phát triển những dấu hiệu lâm sàng gợi ý một hội chứng giống lupus mới khởi phát. Những bệnh nhân cải thiện sau khi ngưng điều trị. Không có bệnh nhân nào phát triển viêm thận lupus và những triệu chứng thần kinh trung ương.
Những biến cố gan-mật
Trong những thử nghiệm đối chứng Pha 3 của Humira ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và viêm khớp vảy nến với thời gian kiểm soát từ 4 đến 104 tuần, ALT > 3 x ULN xảy ra với 3,7% số bệnh nhân điều trị với Humira và 1,6% ở nhóm bệnh nhân kiểm soát.
Trong những thử nghiệm đối chứng Pha 3 của Humira ở bệnh nhân viêm đa khớp tự phát thiếu niên từ 4 đến 17 tuổi và viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận từ 6 đến 17 tuổi, ATL ≥ 3 x ULN xảy ra ở 6,1% bệnh nhân điều trị với Humira và 1,3% bệnh nhân nhóm đối chứng. Những ca tăng ALT xảy ra với sự dùng kèm methotrexate. Không có ca nào tăng ALT ≥ 3 x ULN xảy ra ở nghiên cứu Pha 3 của Humira trên bệnh nhân viêm đa khớp tự phát thiếu niên từ 2 – 4 tuổi.
Trong những thử nghiệm đối chứng Pha 3 của Humira ở bệnh nhân bệnh Crohn và viêm loét đại tràng với thời gian kiểm soát từ 4 đến 52 tuần, sự tăng ALT ≥ 3 x ULN xảy ra ở 0,9% bệnh nhân điều trị bằng Humira và 0,9% bệnh nhân ở nhóm đối chứng.
Trong những thử nghiệm Pha 3 của Humira ở bệnh nhi bệnh Crohn để đánh giá hiệu quả và an toàn của hai liệu trình duy trì điều chỉnh liều theo cân nặng theo sau một liệu trình ban đầu điều chỉnh liều theo cân nặng tới 52 tuần điều trị, sự tăng ALT ≥ 3 x ULN xảy ra ở 2,6% (5/192) số bệnh nhân, trong số này có 4 người có dùng cùng các chất ức chế miễn dịch ở thời điểm ban đầu.
Trong những thử nghiệm đối chứng Pha 3 của Humira trên những bệnh nhân vảy nến thể mảng với thời gian kiểm soát từ 12 đến 24 tuần, sự tăng ALT ≥ 3 x ULN xảy ra ở 1,8% số bệnh nhân điều trị với Humira và 1,8% bệnh nhân nhóm đối chứng.
Không có sự tăng ALT ≥ 3 x ULN xảy ra trong thử nghiệm pha 3 của Humira ở bệnh nhi có vảy nến thể mảng.
Trong những thử nghiệm đối chứng của Humira (liều ban đầu 160 mg ở Tuần 0 và 80 mg ở Tuần 2, theo sau với 40 mg mỗi tuần bắt đầu từ Tuần 4) ở bệnh nhân viêm tuyến mồ hôi mưng mủ với thời thời gian kiểm soát từ 12 đến 16 tuần, sự tăng ALT ≥ 3 x ULN xảy ra ở 0,3% bệnh nhân điều trị với Humira và 0,6% bệnh nhân nhóm đối chứng.
Trong những thử nghiệm đối chứng của Humira (liều ban đầu 80 mg ở Tuần 0, theo sau với 40 mg mỗi 2 tuần bắt đầu từ Tuần 1) ở bệnh nhân có viêm màng bồ đào tới 80 tuần với thời gian tiếp xúc trung bình là 166,5 ngày và 105,0 ngày tương ứng với nhóm bệnh nhân điều trị với Humira và nhóm bệnh nhân đối chứng, sự tăng ALT ≥ 3 x ULN xảy ra ở 2,4% nhóm bệnh nhân điều trị với Humira và 2,4% bệnh nhân nhóm đối chứng.
Xuyên suốt tất cả các chỉ định ở những bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng có tăng ALT thì không có triệu chứng và trong hầu hết các ca, sự tăng chỉ là thoáng qua và hồi phục khi tiếp tục điều trị. Tuy nhiên, đã có những báo cáo sau lưu hành về suy gan cũng như những rối loạn chức năng gan ít nghiêm trọng hơn có thể diễn tiến đến suy gan, như viêm gan, bao gồm cả viêm gan tự miễn ở bệnh nhân điều trị với adalimumab.
Điều trị đồng thời với azathioprin/6-mercaptopurine
Trong những nghiên cứu bệnh Crohn ở người lớn, tỷ lệ mắc phải cao hơn của các biến cố bất lợi liên quan đến những nhiễm trùng nghiêm trọng và ác tính được thấy khi kết hợp Humira và azathioprine/6-mercaptopurine so với dùng đơn độc Humira.
Báo cáo những phản ứng bất lợi nghi ngờ
Việc báo cáo những phản ứng bất lợi nghi ngờ sau khi thuốc được cấp phép là quan trọng. Những báo cáo cho phép giám sát liên tục việc cân bằng lợi ích/nguy cơ của chế phẩm thuốc. Những chuyên gia y tế được yêu cầu báo cáo bất kỳ những phản ứng bất lợi nghi ngờ thông qua hệ thống báo cáo quốc gia.

Bảo quản

Bảo quản thuốc ở nhiệt độ 2-80C (trong tủ lạnh). Không được làm đông lạnh. Giữ nguyên bơm tiêm trong hộp giấy, tránh ánh sáng.

Trình bày/Đóng gói

Dung dịch tiêm: hộp 2 bơm tiêm nạp sẵn thuốc đơn liều.

A