Nhà sản xuất

Fisiopharma

Nhà phân phối

Nafarma

Thành phần

Mỗi ống: Nitroglycerin 5mg.

Dược lực học

Glyceryl trinitrat (nitroglycerin) là một nitrat hữu cơ, khi vào trong cơ thể được chuyển hóa thành gốc oxyd nitric (NO) nhờ glutathion-S-reductase và cystein; NO kết hợp với nhóm thiol thành nitrosothiol (R-SNO), chất này hoạt hóa guanylat cyclase để chuyển guanosin triphosphat (GTP) thành guanosin 3'5' monophosphat vòng (GMPc). GMPc làm cho myosin trong các sợi cơ thành mạch không được hoạt hóa, không có khả năng kết hợp với actin nên làm giãn mạch.
Thuốc tác động chủ yếu trên hệ tĩnh mạch, với liều cao làm giãn các động mạch và tiểu động mạch. Giãn hệ tĩnh mạch làm cho ứ đọng máu ở ngoại vi và trong các phủ tạng, giảm lượng máu về tim (giảm tiền gánh), hậu quả là giảm áp lực trong các buồng tim. Giãn nhẹ các tiểu động mạch dẫn đến giảm sức cản ngoại vi và áp lực thất trái trong thời gian tâm thu hậu quả là làm giảm nhu cầu oxygen trong cơ tim (giảm hậu gánh). Liều cao làm giảm huyết áp nhất là huyết áp tâm thu, tuy không nhiều nhưng có thể gây phản xạ giao cảm làm mạch hơi nhanh và tăng sức co bóp cơ tim. Các nitrat còn có tác dụng ức chế kết tập tiểu cầu.
Trong suy vành, giảm tiền gánh, giảm hậu gánh sẽ làm giảm công và mức tiêu thụ oxygen của cơ tim, cung và cầu về oxygen của cơ tim được cân bằng sẽ nhanh chóng cắt cơn đau thắt ngực. Thuốc cũng làm giãn động mạch vành, làm mất co thắt mạch, dùng lâu dài còn có tác dụng phân bố lại máu có lợi cho các vùng dưới nội tâm mạc và làm phát triển tuần hoàn bàng hệ.
Trong suy tim, các nitrat do làm giảm lượng máu về tim đã cải thiện tiền gánh, làm giảm áp lực thất phải và áp lực tuần hoàn phổi, như vậy làm giảm các dấu hiệu ứ máu; với liều thích hợp, thuốc lại làm giảm hậu gánh, tạo điều kiện cho tim tống máu tốt hơn, tăng thể tích tâm thu và cung lượng tim.
Dùng các nitrat lâu dài, dễ xảy ra hiện tượng "nhờn thuốc" làm mất dần tác dụng của thuốc. Người ta giải thích có thể do thiếu dự trữ - SH, do thiếu glutathion-S-reductase cần thiết để chuyển hóa các nitrat, do tăng thể tích nội mạch, do hoạt hóa các cơ chế làm co mạch đáp ứng với hiệu ứng giãn mạch của thuốc. Vì vậy trong ngày nên có một khoảng thời gian (ít nhất khoảng 8 giờ) không dùng thuốc.

Dược động học

Hấp thu
Nitroglycerine tiêm tĩnh mạch có thể nhanh chóng đạt được nồng độ đỉnh trong huyết tương và bắt đầu các tác động điều trị.
Phân bố
Thể tích phân phối (Vd) của nitroglycerine sau khi tiêm tĩnh mạch là 3,3 L/kg. Ở nồng độ 50-500 ng/mL trong huyết tương, sự liên kết giữa nitroglycerine và protein huyết tương là khoảng 60%, trong đó, 1,2 - và 1,3- dinitroglycerine (hai chất chuyển hóa chính của nitroglycerine) tương ứng là 60% và 30%.
Chuyển hóa
Hoạt chất được nhanh chóng chuyển hóa trong gan bởi enzym glutathione reductase, tạo ra các chất chuyển hóa không có tác dụng dược lý. Hơn nữa, những thử nghiệm in vitro được tiến hành trên hồng cầu của con người đã cho thấy rằng chính các tế bào hồng cầu là nơi chuyển dạng sinh học của nitroglycerine bằng một quá trình hoạt hóa enzym phụ thuộc sulphydryl và tương tác với nhau làm giảm hemoglobin.
Các thử nghiệm được tiến hành trên động vật đã chứng minh rằng chính các mô mạch máu ngoài gan (tĩnh mạch đùi, tĩnh mạch chủ dưới, động mạch chủ) đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa nitroglycerine, điều này giải thích sự giáng hóa mạnh của nitrat. Các thử nghiệm in vitro cũng đã quan sát thấy việc biến đổi sinh học của nitroglycerine xảy ra đồng thời với việc giãn cơ trơn máu, điều này phù hợp với lý thuyết cho rằng giãn mạch do thuốc là quá trình biến đổi nitroglycerine thành NO.
Thải trừ
Nồng độ nitroglycerine trong huyết tương nhanh chóng được thải trừ với thời gian bán hủy trung bình là 2-3 phút sau khi uống. Hệ số thanh thải (13,8 lít/phút) vượt quá đáng kể lưu lượng máu ở gan.

Chỉ định/Công dụng

Nitroglycerin được dùng trong nhồi máu cơ tim cấp.
Tăng huyết áp kịch phát trong phẫu thuật (đặc biệt trong phẫu thuật tim mạch) dùng dạng truyền tĩnh mạch.

Liều lượng & Cách dùng

Điều trị nhồi máu cơ tim cấp
Dùng nitroglycerin là một trong số biện pháp điều trị cơ bản ban đầu ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp. Bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có đau thắt ngực kéo dài hoặc tăng huyết áp hoặc phù phổi cấp, nitroglycerin truyền tĩnh mạch được sử dụng trong vòng 24-48 giờ đầu với liều bắt đầu từ 12,5-25 microgam/phút, duy trì 10-20 microgam/phút (không được để huyết áp tâm thu < 90mmHg và tần số tim >110 lần/phút).
Người bệnh có suy thất trái (dùng nitrat phối hợp với thuốc ức chế enzyme chuyển đổi nếu bệnh nhân dung nạp tốt) hoặc tăng huyết áp nặng.
Cần dùng liệu pháp liều thấp ban đầu để tránh làm giảm huyết áp quá mức (huyết áp tâm thu < 90mmHg): glyceryl trinitrat 5 microgam/phút được tăng lên từ 5 đến 20 microgam/phút cách 5-10 phút/1 lần, tối đa 200 microgam/phút cho tới khi huyết áp trung bình giảm 10% ở người huyết áp bình thường và giảm khoảng 30% ở người tăng huyết áp; tiêm truyền duy trì trong 24 giờ hoặc lâu hơn.
Khi liều 200 microgam/phút không làm hạ huyết áp, phải ngừng truyền vì có kháng nitrat. Một liệu pháp khác phải được thay thế (như natri nitroprusside, thuốc ức chế enzyme chuyển) nếu đáp ứng thỏa đáng chưa đạt được ở liều 200 microgam/phút. Hiệu quả của nitroglycerin thường hết sau 12 giờ sau khi ngừng truyền.
Điều trị tăng huyết áp
Truyền tĩnh mạch liều 5-100 microgam/phút. Khi có đáp ứng thì giảm liều và tăng khoảng cách truyền. Tác dụng hạ huyết áp xuất hiện trong vòng 2-5 phút và duy trì khoảng 3-5 phút sau khi dừng truyền. Chỉ được phép hạ 25% trong vòng 1 giờ đầu.
Dung dịch để truyền tĩnh mạch được chuẩn bị bằng cách pha loãng nitroglycerine thích hợp theo quy định trong bảng dưới đây và truyền bằng một thiết bị tự động hoặc từng giọt một, theo chỉ dẫn trong bảng truyền (1 mL tương ứng với xấp xỉ 20 giọt của dung dịch truyền bình thường).

Hướng dẫn pha thuốc

Quá Liều

Các dấu hiệu và triệu chứng bị gây ra đặc biệt là do tăng cường giãn mạch và methemoglobin huyết. Triệu chứng: hạ huyết áp và nhịp tim nhanh phản xạ, da lạnh nhợt nhạt, nhức đầu, chóng mặt, lú lẫn, rối loạn thị giác, buồn nôn và nôn mửa kèm đau bụng, giống như đau bụng khi tiêu chảy, đánh trống ngực, ngất và suy tim - tuần hoàn.
Các triệu chứng liên quan với huyết áp tổng quát thấp nghiêm trọng đòi hỏi phải giảm tốc độ truyền ngay lập tức, đồng thời, bệnh nhân bị ngộ độc phải được đặt ở tư thế Trendelenburg (kéo căng ra theo cử động leo thụ động) và truyền dịch tĩnh mạch. Sử dụng các chất chủ vận alpha-adrenergic (tức là methoxamine hoặc phenylephrin), nếu cần thiết. Adrenalin và các chất tương tự không hiệu quả đáng kể trên dấu hiệu hạ huyết áp liên quan đến quá liều.
Điều trị tím tái do methemoglobin huyết: bắt đầu khi nồng độ methemoglobin 0,8 g/100 mL, dự kiến điều trị bằng tiêm tĩnh mạch với xanh methylene 1% (1-2 mg/kg). Một liều 50 mg/kg nên được dùng qua đường uống trong trường hợp ít nghiêm trọng. Việc điều trị nên được tiến hành ở một trung tâm chuyên môn.

Chống chỉ định

Huyết áp thấp, trụy tim mạch.
Thiếu máu nặng.
Tăng áp lực nội sọ do chấn thương đầu hoặc xuất huyết não.
Nhồi máu cơ tim thất phải.
Hẹp van động mạch chủ, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn.
Viêm màng ngoài tim co thắt.
Dị ứng với các nitrat hữu cơ.
Glocom góc đóng.
Dùng kèm với các thuốc ức chế phosphodiesterase-5 (PDE-5) như sildenafil, tadalafil, vardernafil.

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Không nên dùng trinitrina đậm đặc để pha các dung dịch truyền trong thời kỳ mang thai, đặc biệt là trong ba tháng đầu của thai kỳ, trừ khi thực sự cần thiết.
Không xác định được chắc chắn liệu nitroglycerine có được bài tiết qua sữa mẹ không. Vì không thể loại trừ khả năng này, nên cần đặc biệt thận trọng khi chỉ định nitroglycerine cho bệnh nhân đang cho con bú.

Tương tác

Ethanol có thể chặn quá trình trao đổi chất, từ đó tăng cường tác động của nitroglycerine.
Các thuốc giãn mạch, thuốc hạ huyết áp và thuốc lợi tiểu có thể làm tăng tác dụng hạ huyết áp của nitroglycerine.
Tác dụng giãn mạch ngoại vi của nitroglycerine bị cản trở nếu sử dụng đồng thời với indomethacin, có thể qua cơ chế ức chế prostaglandin.
Sử dụng nitroglycerine tiêm tĩnh mạch làm giảm tác dụng tan huyết khối của alteplase và những tác động chống đông máu của heparin.
Sildenafil làm tăng tác dụng hạ huyết áp của nitrat, vì có tác dụng hiệp đồng với nitrat hữu cơ (ví dụ như nitroglycerine) nên chống chỉ định.
Tương tác với các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm
Nitrat có thể ảnh hưởng đến phép đo màu của xét nghiệm Zlatkis/Zak vì cho ra một kết quả sai với mức cholesterol thấp trong huyết tương.

Tác dụng ngoại ý

Nhức đầu cấp tính và dai dẳng do giãn mạch máu não có thể xảy ra ngay sau khi sử dụng nitroglycerine.
Chóng mặt, lú lẫn, suy nhược, tăng nhịp tim và các dấu hiệu tụt huyết áp, như buồn nôn, nôn, toát mồ hôi, xanh xao và ngất xỉu thường liên quan đến việc dùng thuốc quá liều. Nitroglycerine có thể hiếm khi gây nhịp tim chậm và các dấu hiệu của tăng đối giao cảm. Hơn nữa, đỏ da và viêm da tróc vảy có thể được quan sát thấy ở những bệnh nhân được điều trị với nitrat.
Những trường hợp hiếm hoi của methemoglobin huyết có thể nhanh chóng loại bỏ bằng cách giảm tốc độ truyền và dùng xanh methylene đã được báo cáo.
Những tác dụng không mong muốn, ví dụ nóng bừng, nhức đầu và hạ huyết áp tư thế, có thể là một giới hạn, đặc biệt là trong những giai đoạn đầu của điều trị, khi đau thắt ngực nặng hoặc khi những bệnh nhân quá nhạy cảm với những tác dụng của nitrat. Đau đầu thường xảy ra trong khi điều trị.
Báo cáo tác dụng phụ được liệt kê dưới đây được xếp loại theo hệ thống:
Các rối loạn ở máu và hệ bạch huyết: methemoglobin huyết (hiếm)
Rối loạn hệ thần kinh: chóng mặt, nhức đầu
Rối loạn nhãn khoa: mờ mắt
Rối loạn tim mạch: nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, nhịp tim chậm nghịch lý, ngất
Rối loạn mạch máu: hạ huyết áp tư thế
Rối loạn tiêu hóa: buồn nôn, khó tiêu
Rối loạn da và mô dưới da: phát ban
Rối loạn thông thường và thay đổi tại nơi truyền
· Rối loạn thông thường: nóng bừng mặt với phát ban, suy nhược và đổ mồ hôi, tím tái (rất hiếm)
· Thay đổi tại nơi truyền: cảm giác như bị đốt và phát ban, methemoglobin huyết có liên quan đến điều trị kéo dài và liều cao.

Thận trọng

Thuốc này phải được sử dụng hết sức thận trọng cho những bệnh nhân bị chấn thương sọ não và xuất huyết não.
Điều trị với nitroglycerine bằng truyền tĩnh mạch chỉ được sử dụng trong bệnh viện, theo dõi huyết áp, nhịp tim và tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Những bệnh nhân nặng đòi hỏi theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm (central venous pressure) và/hoặc áp lực động mạch phổi, cung lượng tim và điện tâm đồ (ECG).
1,5 mL dung dịch đậm đặc Trinitrina có chứa 0,82 mL ethanol (cồn), tương đương khoảng 647 mg ethanol, tương đương với khoảng 13 mL bia (5%) hoặc 5,4 mL rượu (12%).
Nguy hại cho những bệnh nhân mắc chứng nghiện rượu.
Cần thận trọng khi sử dụng cho phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, trẻ em và những bệnh nhân có nguy cơ cao như bệnh nhân mắc bệnh gan hoặc mắc chứng động kinh.
Khả năng lái xe và vận hành máy móc
Mặc dù không chắc rằng một bệnh nhân sử dụng Trinitrina hoặc là sẽ lái xe hoặc sử dụng máy móc; nhưng do một số tác dụng phụ (hạ huyết áp tư thế, buồn nôn, chóng mặt), thuốc có thể ảnh hưởng đáng kể đến khả năng lái xe hoặc sử dụng máy móc. Những tác dụng không mong muốn có thể làm chậm đi các phản xạ của bệnh nhân.

Bảo quản

Bảo quản dưới 30oC. Tránh ánh sáng và tránh ẩm.

Phân loại ATC

C05AE01 - glyceryl trinitrate

Trình bày/Đóng gói

Dung dịch đậm đặc pha tiêm truyền: hộp 10 ống 1.5mL.

A