Nhà sản xuất

AstraZeneca

Thành phần

Mỗi mẫu cấy: Goserelin (dưới dạng Goserelin acetat) 3,6mg.

Dược lực học

Nhóm dược lý: Thuốc chủ vận hormon giải phóng Gonadotropin, mã ATC: L02AE03.
Zoladex (D-Ser (But)6 Azgly10 LHRH) là một hoạt chất tổng hợp có cấu trúc tương tự với LHRH tự nhiên. Sử dụng Zoladex lâu dài dẫn đến ức chế sự tiết LH tuyến yên do đó làm giảm nồng độ testosterone trong huyết thanh ở nam giới và nồng độ oestradiol huyết thanh ở nữ giới. Hiệu quả này có thể phục hồi khi ngưng điều trị. Trước tiên Zoladex cũng giống như các chất chủ vận LHRH, có thể làm tăng tạm thời nồng độ testosterone huyết thanh ở nam giới và oestradiol huyết thanh ở nữ giới.
Ở nam giới, vào khoảng 21 ngày sau liều tiêm đầu tiên, nồng độ testosterone hạ thấp đến mức tương đương với người phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn và tiếp tục bị ức chế khi điều trị tiếp tục mỗi 28 ngày. Sự ức chế này dẫn đến thoái triển u tiền liệt tuyến và cải thiện triệu chứng ở phần lớn bệnh nhân.
Trong điều trị bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến di căn, Zoladex cho thấy mang lại hiệu quả sống còn tương đương với người được phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn trong các thử nghiệm lâm sàng so sánh.
Trong một phân tích cộng gộp của hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm soát so sánh đơn trị liệu bicalutamid 150 mg với cắt tinh hoàn (chủ yếu dưới dạng nội khoa bằng thuốc Zoladex) trên bệnh nhân mắc ung thư tiền liệt tuyến tiến triển tại chỗ cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa trên tỷ lệ sống còn toàn bộ giữa bệnh nhân điều trị với bicalutamid và bệnh nhân cắt tinh hoàn (Tỷ số nguy cơ = 1,05 [CI 0,81-1,36]). Tuy nhiên, sự tương đương giữa hai phương pháp điều trị này chưa thể kết luận có ý nghĩa về mặt thống kê.
Trong các thử nghiệm lâm sàng so sánh cho thấy Zoladex cải thiện sống còn không bệnh và sống còn toàn bộ khi dùng điều trị bổ trợ sau xạ trị ở bệnh nhân mắc ung thư tiền liệt tuyến tại chỗ có nguy cơ cao (T1-T2 và PSA ít nhất 10 ng/mL hoặc điểm Gleason ít nhất 7), hoặc tiến triển tại chỗ (T3-T4). Thời gian điều trị bổ trợ tối ưu vẫn chưa được xác định, có một thử nghiệm lâm sàng so sánh cho thấy điều trị bổ trợ bằng Zoladex trong 3 năm mang lại cải thiện sống còn có ý nghĩa so với xạ trị đơn thuần. Điều trị tân bổ trợ bằng Zoladex trước khi xạ trị cho thấy cải thiện sống còn không bệnh ở bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến tại chỗ có nguy cơ cao hoặc tiến triển tại chỗ.
Sau khi phẫu thuật cắt tiền liệt tuyến, ở bệnh nhân có u tiền liệt tuyến lan rộng, điều trị bổ trợ bằng Zoladex có thể cải thiện thời gian sống còn không bệnh, nhưng không cải thiện có ý nghĩa sống còn toàn bộ ngoại trừ những bệnh nhân có bằng chứng di căn hạch tại thời điểm phẫu thuật. Bệnh nhân có bệnh tiến triển tại chỗ (phân giai đoạn theo giải phẫu bệnh) cần có thêm các yếu tố nguy cơ như PSA ít nhất 10 ng/mL hoặc điểm Gleason ít nhất 7 trước khi xem xét điều trị bổ trợ bằng Zoladex. Không có bằng chứng cho thấy việc dùng Zoladex tân bổ trợ trước khi phẫu thuật cắt bỏ tiền liệt tuyến tận gốc có cải thiện về hiệu quả lâm sàng.
Ở nữ giới, nồng độ oestradiol huyết thanh được giảm xuống vào khoảng 21 ngày sau liều đầu và khi điều trị liên tục mỗi 28 ngày, nồng độ oestradiol bị ức chế ở mức tương đương ở phụ nữ mãn kinh. Sự giảm nồng độ này liên quan đến đáp ứng điều trị ung thư vú tiến xa phụ thuộc hormon, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung và giảm sự phát triển noãn nang trong buồng trứng. Nó sẽ làm giảm độ dày nội mạc tử cung và dẫn đến vô kinh ở phần lớn bệnh nhân được điều trị.
Trong khi điều trị bằng chất có cấu trúc tương tự LHRH, bệnh nhân có thể bị tắt kinh. Một số hiếm trường hợp bệnh nhân không có kinh trở lại sau khi ngưng điều trị.
Ở phụ nữ thiếu máu do u xơ tử cung, Zoladex phối hợp với sắt gây vô kinh và cải thiện nồng độ haemoglobin và các tham số huyết học có liên quan. Sự phối hợp này làm cho nồng độ haemoglobin trung bình cao hơn 1 g/dL so với đơn trị liệu bằng sắt.

Dược động học

Sinh khả dụng của Zoladex là hầu như hoàn hảo. Việc sử dụng mẫu cấy phóng thích chậm (depot) mỗi 4 tuần đảm bảo rằng nồng độ hiệu quả được duy trì mà không có tích lũy ở mô. Zoladex ít gắn kết với protein và thời gian bán thải trong máu là 2-4 giờ ở người có chức năng thận bình thường. Thời gian bán thải này sẽ tăng ở những bệnh nhân bị tổn thương chức năng thận. Đối với hoạt chất thuốc bào chế dưới dạng depot được dùng mỗi tháng, sự thay đổi này hầu như không đáng kể. Do đó không nhất thiết phải thay đổi liều ở những bệnh nhân này. Không có thay đổi đáng kể nào về mặt dược động học ở những bệnh nhân bị suy gan.

Chỉ định/Công dụng

Ung thư tiền liệt tuyến
ZOLADEX 3,6mg được chỉ định trong kiểm soát ung thư tiền liệt tuyến thích hợp với đáp ứng điều trị qua cơ chế hormon.
Ung thư vú
ZOLADEX 3,6mg được chỉ định trong kiểm soát ung thư vú ở phụ nữ tiền mãn kinh và cận mãn kinh thích hợp với đáp ứng điều trị qua cơ chế hormon.
Lạc nội mạc tử cung
Trong kiểm soát lạc nội mạc tử cung, ZOLADEX 3,6mg làm giảm triệu chứng bao gồm cảm giác đau, giảm kích thước và số lượng các sang thương nội mạc tử cung lạc chỗ.
Giảm độ dày nội mạc tử cung
ZOLADEX 3,6mg được chỉ định làm giảm chiều dày nội mạc tử cung trước phẫu thuật cắt lọc nội mạc tử cung.
U xơ tử cung
Kết hợp với điều trị bổ sung sắt trước khi phẫu thuật để cải thiện tình trạng huyết học ở các bệnh nhân bị thiếu máu do u xơ tử cung gây ra.
Sinh sản có trợ giúp
Điều hòa ức chế tuyến yên chuẩn bị cho quá trình rụng nhiều trứng.

Liều lượng & Cách dùng

Liều dùng
Người lớn
Một depot (mẫu thuốc phóng thích chậm) 3,6 mg Zoladex tiêm dưới da thành bụng trước mỗi 28 ngày. Không cần thiết phải điều chỉnh liều cho các bệnh nhân suy thận hoặc suy gan, hoặc bệnh nhân lớn tuổi.
Lạc nội mạc tử cung nên được điều trị chỉ trong khoảng 6 tháng, vì hiện nay chưa có dữ liệu lâm sàng nào đối với liệu trình kéo dài hơn. Không nên dùng thuốc nhiều lần vì có thể gây mất chất khoáng của xương. Bệnh nhân điều trị lạc nội mạc tử cung bằng Zoladex có bổ sung liệu pháp nội tiết thay thế (dùng oestrogen và progesteron mỗi ngày) cho thấy làm giảm sự mất chất khoáng của xương và các triệu chứng vận mạch.
Đối với chỉ định giảm độ dày nội mạc tử cung: điều trị bốn hoặc tám tuần. Depot thứ hai có thể được yêu cầu cho bệnh nhân phì đại tử cung hoặc cho phép thời gian phẫu thuật linh hoạt.
Đối với phụ nữ bị thiếu máu do u xơ tử cung gây ra, mẫu cấy Zoladex 3,6mg với điều trị bổ sung sắt được dùng trong ba tháng trước phẫu thuật.
Sinh sản có trợ giúp: Zoladex 3,6mg được dùng để điều hòa ức chế tuyến yên, được xác định dựa trên nồng độ oestradiol huyết thanh tương tự như nồng độ oestradiol huyết thanh được quan sát vào đầu giai đoạn tạo noãn (khoảng 150 pmol/L). Tác động điều hoà kéo dài từ 7 đến 21 ngày.
Khi đạt được sự ức chế tuyến yên, quá trình rụng nhiều trứng (kích thích rụng trứng có kiểm soát) bằng gonadotrophin sẽ bắt đầu. Sự ức chế tuyến yên đạt được bằng một chất chủ vận GnRH dạng phóng thích kéo dài thì trong một số trường hợp có thể làm tăng nhu cầu gonadotrophin. Ở giai đoạn phát triển nang noãn thích hợp, gonadotrophin được ngưng dùng và human chorionic gonadotrophin (hCG) được sử dụng để gây ra rụng trứng. Việc theo dõi điều trị, thu nhận trứng và kỹ thuật thụ tinh được thực hiện theo những phương pháp thường quy ở mỗi cơ sở.
Trẻ em
Zoladex không được chỉ định dùng cho trẻ em.
Cách dùng
Để sử dụng đúng Zoladex, xin xem thông tin hướng dẫn đính kèm túi chứa bơm tiêm.
Thận trọng khi tiêm Zoladex vào thành bụng trước do gần với động mạch thượng vị bên dưới và các nhánh của động mạch đó.
Đặc biệt thận trọng khi dùng cho bệnh nhân có BMI thấp hoặc bệnh nhân dùng thuốc kháng đông (xem phần Cảnh báo).
Đảm bảo thuốc được tiêm dưới da, theo đúng kỹ thuật trong phần ''Hướng dẫn sử dụng''. Không đâm kim tiêm vào mạch máu, cơ hoặc màng bụng.
Trong trường hợp cần lấy mẫu cấy Zoladex ra khỏi cơ thể, có thể định vị bằng siêu âm.
Hướng dẫn sử dụng
Dùng theo chỉ dẫn của bác sỹ. Chỉ sử dụng khi túi đựng bơm tiêm vẫn còn nguyên vẹn. Dùng ngay lập tức sau khi mở túi.
- xem Bảng ''Hướng dẫn sử dụng''.

Cảnh báo

Nguy cơ trầm cảm tăng lên (có thể ở mức độ nặng) ở bệnh nhân đang điều trị bằng chất chủ vận GnRH, như goserelin. Bệnh nhân nên được thông báo và có biện pháp điều trị phù hợp nếu các triệu chứng xuất hiện.
Liệu pháp kháng androgen có thể làm kéo dài khoảng QT.
Ở bệnh nhân có tiền căn hoặc có các yếu tố nguy cơ làm kéo dài khoảng QT và ở bệnh nhân dùng đồng thời với các thuốc làm kéo dài khoảng QT (xem mục Tương tác), bác sĩ nên đánh giá tỉ số lợi ích và nguy cơ kể cả khả năng xoắn đỉnh (Torsade de pointes) trước khi khởi đầu với Zoladex.
Tổn thương tại vị trí tiêm đã được báo cáo với Zoladex, bao gồm triệu chứng đau, tụ máu, xuất huyết và tổn thương mạch. Theo dõi bệnh nhân có các dấu hiệu hoặc triệu chứng xuất huyết thành bụng. Trong rất hiếm các trường hợp, sai sót do cách tiêm có thể dẫn đến tổn thương mạch hoặc sốc xuất huyết khi đó đòi hỏi cần truyền máu và phẫu thuật can thiệp. Đặc biệt thận trọng khi dùng Zoladex cho bệnh nhân có BMI thấp và/hoặc bệnh nhân dùng thuốc kháng đông (xem phần Liều lượng và Cách dùng).
Nam giới
Nên cẩn thận khi dùng Zoladex ở nam giới có nguy cơ nghẽn tắc đường niệu tiến triển hay chèn ép tủy sống, những bệnh nhân này nên được theo dõi cẩn thận trong suốt tháng điều trị đầu tiên. Nếu có hoặc đang tiến triển tình trạng chèn ép tủy sống hoặc tổn thương thận do nghẽn tắc đường niệu, thì các biện pháp điều trị tiêu chuẩn đặc hiệu đối với biến chứng này phải được thực hiện.
Do đã có báo cáo về việc dùng thuốc kháng androgen trước và sau khi điều trị bằng liệu pháp chủ vận LHRH ngăn ngừa được các di chứng có thể có của việc tăng nồng độ testosteron huyết thanh lúc đầu, nên cần xem xét sử dụng cho bệnh nhân khởi đầu với thuốc kháng androgen (như cyproteron acetat 300 mg mỗi ngày trong 3 ngày trước và 3 tuần sau khi bắt đầu với Zoladex).
Việc sử dụng chất chủ vận LHRH có thể làm giảm mật độ khoáng của xương. Ở nam giới, dữ liệu sơ bộ đề nghị việc sử dụng biphosphonat kết hợp với chất chủ vận LHRH có thể làm giảm sự mất chất khoáng của xương. Đặc biệt thận trọng ở bệnh nhân có thêm các yếu tố nguy cơ gây loãng xương (như nghiện rượu mạn tính, hút thuốc, dùng các thuốc chống co giật hoặc corticoid kéo dài, tiền sử gia đình bị loãng xương).
Theo dõi thận trọng ở bệnh nhân trầm cảm và bệnh nhân cao huyết áp.
Sự giảm dung nạp glucose được ghi nhận ở nam giới sử dụng chất chủ vận LHRH. Nó có thể được thể hiện bằng bệnh đái tháo đường hoặc mất kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đã có bệnh đái tháo đường. Vì vậy nên xem xét việc theo dõi đường huyết.
Nhồi máu cơ tim và suy tim đã được quan sát thấy trong các nghiên cứu dược lý-dịch tễ học trên các chất chủ vận LHRH trong điều trị ung thư tiền liệt tuyến. Nguy cơ tăng khi dùng phối hợp với các thuốc kháng androgen.
Phụ nữ
Chỉ định ung thư vú
Giảm mật độ khoáng của xương
Việc sử dụng các chất chủ vận LHRH có thể làm giảm mật độ khoáng của xương. Sau hai năm điều trị ung thư vú giai đoạn sớm, tỷ lệ mất mật độ khoáng của xương trung bình là 6,2% và 11,5% tương ứng ở cổ xương đùi và cột sống thắt lưng. Sự giảm này đã được chứng minh là có thể hồi phục một phần sau 1 năm ngừng điều trị và theo dõi với mức hồi phục tương ứng là 3,4% và 6,4% so với ban đầu ở cổ xương đùi và cột sống thắt lưng, mặc dù sự phục hồi này dựa trên dữ liệu rất hạn chế. Ở phần lớn phụ nữ, những dữ liệu sẵn có hiện nay cho thấy sự mất xương sẽ được phục hồi sau khi ngưng điều trị.
Dữ liệu sơ bộ cho thấy việc sử dụng Zoladex kết hợp với tamoxifen ở bệnh nhân bị ung thư vú có thể làm giảm sự mất chất khoáng của xương.
Chỉ định lành tính
Mất mật độ khoáng của xương
Việc sử dụng các chất chủ vận LHRH có thể làm giảm mật độ khoáng của xương trung bình 1% mỗi tháng trong sáu tháng điều trị. Cứ giảm 10% mật độ khoáng xương có thể tăng nguy cơ gãy xương 2-3 lần. Ở phần lớn phụ nữ, những dữ liệu sẵn có hiện nay cho thấy sự mất xương sẽ được phục hồi sau khi ngưng điều trị.
Bệnh nhân điều trị lạc nội mạc tử cung bằng Zoladex có bổ sung liệu pháp nội tiết thay thế cho thấy làm giảm sự mất chất khoáng của xương và các triệu chứng vận mạch.
Không có dữ liệu cụ thể sẵn có cho bệnh nhân bị loãng xương hoặc có yếu tố nguy cơ gây loãng xương (như nghiện rượu mạn tính, hút thuốc, điều trị kéo dài với các thuốc làm giảm mật độ khoáng xương, như thuốc chống co giật hoặc corticoid, tiền sử gia đình bị loãng xương, suy dinh dưỡng, như chán ăn tâm lý). Việc giảm mật độ khoáng của xương có thể gây hại nhiều hơn ở những bệnh nhân này, do đó điều trị bằng Zoladex nên xem xét trên từng cá thể và chỉ được bắt đầu điều trị nếu lợi ích của việc điều trị lớn hơn nguy cơ sau khi đã được đánh giá rất cẩn thận. Cần cân nhắc các biện pháp bổ sung để chống lại sự mất mật độ khoáng của xương.
Xuất huyết âm đạo do giảm estrogen (withdrawal bleeding)
Trong thời gian đầu điều trị với Zoladex, một số phụ nữ có thể bị xuất huyết âm đạo với thời gian và cường độ thay đổi. Xuất huyết âm đạo thường xảy ra trong tháng đầu tiên sau khi bắt đầu điều trị. Triệu chứng này có thể được cho là xuất huyết do giảm estrogen và sẽ tự ngừng lại. Nên điều tra nguyên nhân nếu còn tiếp tục xuất huyết.
Chưa có các dữ liệu lâm sàng nào về ảnh hưởng của điều trị bằng Zoladex trong các bệnh trạng phụ khoa lành tính trong giai đoạn quá 6 tháng.
Sử dụng Zoladex có thể gây ra tăng đề kháng cổ tử cung, nên thận trọng khi có sự giãn nở cổ tử cung.
Zoladex chỉ nên được dùng như là một phần của chế độ điều trị sinh sản có trợ giúp dưới sự giám sát của bác sỹ chuyên khoa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Giống như các chất chủ vận LHRH khác, có một số báo cáo về hội chứng tăng kích thích noãn (OHSS) liên quan đến việc sử dụng ZOLADEX 3,6mg phối hợp với gonadotrophin. Chu kỳ kích thích nên được theo dõi cẩn thận để lọc ra những bệnh nhân có nguy cơ phát triển hội chứng OHSS. Nếu phát hiện nguy cơ hội chứng OHSS, nên ngưng dùng human chorionic gonadotrophin (hCG) khi thích hợp.
Zoladex được khuyến cáo sử dụng thận trọng trong điều trị hỗ trợ sinh sản (fertilisation treatment) ở những bệnh nhân bị hội chứng buồng trứng đa nang do sự kích thích phát triển nang noãn có thể tăng lên.
Phụ nữ có khả năng mang thai nên sử dụng các biện pháp tránh thai không hormon trong khi điều trị bằng Zoladex và đến khi có kinh trở lại sau khi ngưng điều trị với Zoladex.
Theo dõi thận trọng ở bệnh nhân trầm cảm và bệnh nhân cao huyết áp.
Điều trị bằng Zoladex có thể dẫn đến phản ứng dương tính trong các xét nghiệm chống chất kích thích (anti-doping).
Trẻ em
Zoladex không được dùng cho trẻ em vì chưa xác lập được tính an toàn và hiệu quả của thuốc trên nhóm bệnh nhân này.
Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Zoladex không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến khả năng lái xe và vận hành máy móc.

Quá Liều

Kinh nghiệm về việc dùng thuốc quá liều trên người không nhiều. Trong trường hợp Zoladex được dùng trước thời gian quy định, hoặc dùng ở liều cao hơn ban đầu, vẫn không thấy có các tác động ngoại ý quan trọng về mặt lâm sàng. Những thử nghiệm trên súc vật cho thấy không có tác động nào ngoài các tác động trị liệu trên nồng độ hormon giới tính và tác động lên hệ sinh sản rõ rệt khi điều trị với liều Zoladex 3,6mg cao hơn liều chỉ định. Nếu có tình trạng quá liều nên điều trị triệu chứng.

Chống chỉ định

Nhạy cảm với hoạt chất hoặc với bất kỳ tá dược nào của thuốc.
Phụ nữ có thai và cho con bú (xem phần Sử thuốc ở phụ nữ có thai và cho con bú).

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Phụ nữ có thai
Không nên dùng Zoladex trong thai kỳ vì việc sử dụng đồng thời các chất chủ vận LHRH có liên quan đến nguy cơ trên lý thuyết về sẩy thai hay bất thường cho thai nhi. Trước khi điều trị, phụ nữ có khả năng đang mang thai nên đi khám cẩn thận để loại trừ khả năng có thai. Trong khi điều trị, nên dùng biện pháp tránh thai không hormon đến khi có kinh trở lại (xem thêm lưu ý về thời gian có kinh trở lại trong phần Cảnh báo).
Phải loại trừ khả năng có thai trước khi dùng Zoladex trong điều trị hỗ trợ sinh sản (fertilisation treatment). Khi sử dụng Zoladex trong lĩnh vực này, không có bằng chứng lâm sàng cho thấy có mối quan hệ nhân quả giữa việc dùng Zoladex và những bất thường về phát triển của trứng hoặc quá trình mang thai.
Phụ nữ cho con bú
Không nên sử dụng Zoladex ở phụ nữ đang cho con bú.

Tương tác

Do liệu pháp kháng androgen có thể làm kéo dài khoảng QT, thận trọng khi sử dụng đồng thời Zoladex với các thuốc làm kéo dài khoảng QT hoặc các thuốc có thể gây xoắn đỉnh như các thuốc chống loạn nhịp nhóm IA (quinidin, disopyramid) hoặc nhóm III (amiodaron, sotalol, dofetilid, ibutilid), methadone, moxifloxacin, thuốc chống loạn thần … (xem phần Cảnh báo).

Tác dụng ngoại ý

Bảng phân loại các phản ứng ngoại ý do thuốc (ADRs) theo tần suất sau đây được tính dựa trên các báo cáo thử nghiệm lâm sàng và báo cáo lưu hành thuốc Zoladex trên thị trường. Các phản ứng ngoại ý thường gặp nhất bao gồm nóng bừng mặt, đổ mồ hôi và phản ứng tại chỗ tiêm.
Bảng tác dụng không mong muốn sau được phân loại theo tần suất: Rất thường gặp (≥1/10), Thường gặp (≥1/100 - <1/10), Ít gặp (≥1/1.000 - <1/100), Hiếm gặp (≥1/10.000 - <1/1,000), Rất hiếm gặp (<1/10.000) và Chưa biết (không thể ước tính từ các dữ liệu hiện có).
- xem Bảng 1.

Kinh nghiệm sau khi lưu hành thuốc
Đã ghi nhận một số ít trường hợp thay đổi công thức máu, suy gan, thuyên tắc phổi và bệnh phổi mô kẽ có liên quan đến Zoladex.
Ngoài ra, các phản ứng ngoại ý sau đây đã được ghi nhận ở phụ nữ được điều trị các chỉ định phụ khoa lành tính:
Nổi mụn, thay đổi của lông tóc, khô da, tăng cân, tăng cholesterol huyết thanh, hội chứng tăng kích thích noãn (nếu dùng đồng thời với gonadotropin), viêm âm đạo, tiết dịch âm đạo, căng thẳng, rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi, phù ngoại biên, đau cơ, chuột rút ở bắp chân, buồn nôn, nôn ói, tiêu chảy, táo bón, đau bụng, thay đổi giọng nói.
Có thể điều trị triệu chứng nếu bệnh nhân ung thư vú gặp phải những dấu hiệu và triệu chứng tăng lên tạm thời khi bắt đầu điều trị.
Hiếm gặp trường hợp bệnh nhân ung thư vú di căn có tăng canxi huyết khi bắt đầu điều trị. Nên loại trừ tăng canxi huyết khi có biểu hiện tăng canxi huyết (như khát nước).
Hiếm gặp trường hợp một số phụ nữ bước vào thời kỳ mãn kinh trong khi điều trị bằng các chất tương tự LHRH và không có kinh trở lại sau khi ngưng điều trị. Chưa biết được đây là ảnh hưởng của điều trị với Zoladex hay là phản ánh của tình trạng phụ khoa của bệnh nhân.

Bảo quản

Bảo quản ở nhiệt độ dưới 30°C.

Phân loại ATC

L02AE03 - goserelin

Trình bày/Đóng gói

Mẫu cấy phóng thích chậm (depot), chứa trong bơm tiêm: hộp 1 bơm tiêm đơn liều.

A